Tòa nhà Lotte Center Hà Nội. Ảnh: Chiến Công. |
Có khá nhiều BĐS bán lẻ tại Việt Nam đã có tỷ lệ cho thuê khá thấp trong một thời gian dài khi BĐS xuống dốc do có thời gian nguồn cung tăng quá nhanh. Ông có nhìn thấy điều đó trên thị trường lúc này? Tôi không thấy tình hình bi quan như vậy vì nhiều yếu tố: Đúng là nguồn cung hiện nay đang tăng, ví dụ như Vincom đang xây dựng 20 trung tâm mua sắm cùng một lúc nhưng thu nhập bình quân đầu người và thu nhập hộ gia đình đang phát triển nhanh chóng, tăng đến hai con số tại Việt Nam. Số người Việt đi du lịch nước ngoài cũng đang tăng và giúp họ biết được nhiều thương hiệu hơn, kích thích thói quen mua sắm hơn. Nguồn cung tăng nhưng kinh tế vĩ mô cũng đang phát triển ổn định, thói quen mua sắm của người dân cũng đang được cải thiện. Do đó tôi thấy rằng mọi thứ vẫn đang đi đúng quỹ đạo tự nhiên của nó, chỉ có một điều mà thị trường bán lẻ Việt Nam cần cải thiện đó chính là phải thu hút các thương hiệu lớn quan trọng vào trung tâm thương mại vì tại bất kỳ quốc gia nào trong khu vực, các thương hiệu này đóng vai trò quan trọng trong việc thành bại của trung tâm thương mại do họ thu hút người dân đến đây mua sắm và sử dụng dịch vụ. Tại Việt Nam, có nhiều thương vụ M&A trong lĩnh vực này, đồng thời nguồn cung mặt bằng bán lẻ cũng tăng lên đáng kể tại các thành phố lớn, ông đánh giá sao về những thành công này? Nói về các thương vụ M&A thì tôi nghĩ đó là những dấu hiệu tích cực, nó cho thấy các nhà bán lẻ nước ngoài thật sự quan tâm đến thị trường Việt Nam và muốn gia nhập vào thị trường một cách nhanh nhóng, nên họ mới chọn hình thức M&A hơn là những hình thức khác vốn cần thời gian và nguồn lực hơn. Với số dân 90 triệu và cơ cấu dân số trẻ, lương đã tăng 15% trong năm 2015 và dự kiến còn tăng thêm hai con số trong thời gian tới. Kinh tế vĩ mô đang trên đà tăng trưởng và thị trường bán lẻ cũng hoạt động tốt là những điều kiện tốt để các nhà bán lẻ yên tâm vào tiềm năng phát triển của thị trường. Nhưng như tôi đã đề cập trước đó, thói quen sinh hoạt và mua sắm của người dân vẫn chưa gắn liền với các hình thức bán lẻ hiện đại nên dù cho lương có tăng lên 30% trong hai năm tới đi chăng nữa thì người dân cũng sẽ không dùng phần lớn lương cho mua sắm tại các trung tâm thương mại. Đó là một những thách thức đối với doanh nghiệp bán lẻ nước ngoại, kể cả khi họ đã mua lại các công ty trong nước và gia nhập thị trường. Từ 2 năm trở lại đây, các thương hiệu bán lẻ quốc tế gia nhập vào thị trường Việt Nam rất mạnh mẽ, theo ông lý do nào khiến các thương hiệu quốc tế lại lựa chọn Việt Nam? Trong bối cảnh các nhà đầu tư nước ngoài đang gặp nhiều khó khăn, mọi thứ đang dần trở nên bão hòa tại nước của họ, buộc họ phải tìm các thị trường mới ở nước ngoài để mở rộng thì Việt Nam đã và đang là điềm đến đầu tư yêu thích của các nhà đầu tư nói chung và các nhà bán lẻ nói riêng. Các nhà bán lẻ trước khi gia nhập thị trường nào thì họ phải làm công tác nghiên cứu thị trường rất kỹ lưỡng, Việt Nam với nhiều điều kiện thuận lợi như tôi đã kể ở trên (dân số trẻ, thu nhập đầu người tăng, kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ đô thị hóa, các hiệp định thương mại...) đã khiến họ tự tin khi đầu tư vào. Đứng trước cơ hội cũng như những thách thức này, các doanh nghiệp bán lẻ nội nên có những thay đổi như thế nào thưa ông? Dù cho các nhà bán lẻ nội có nhiều lợi thế như am hiểu tốt hơn về người tiêu dùng, có mối quan hệ, có quỹ đất…thì họ cũng không nên chủ quan mà phải tranh thủ học hỏi những cái mới, những cái hay từ các nhà bán lẻ nước ngoài và kết hợp với các ưu điểm của mình để phát huy lợi thế cạnh tranh lên mức cao nhất. Cần phải linh hoạt và uyển chuyển để thích nghi với những thayđổi của thị trường vì bản chất của thị trường bán lẻ rất nhanh thay đổi, đặc biệt là tại các quốc gia mới nổi như Việt Nam thì thị trường còn tiềm ẩn nhiều rủi ro và biến động hơn nữa. Xin cảm ơn ông!