Saturday, 07:51 10/05/2014
Biển Đông và những giới hạn trong “sức mạnh mềm” của Trung Quốc
Kinhtedothi - Nhìn lại diễn biến sự kiện Biển Đông trong nhiều năm qua và đặc biệt là việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào khu vực Biển Đông mới đây, có thể thấy tình huống này đang đẩy mối quan hệ Việt – Trung nói riêng và các nước trong khu vực nói chung vào những giới hạn thách thức khả năng kiềm chế.
Từ cách tiếp cận hành vi, chúng tôi cho rằng, lịch sử có thể thay đổi nhưng khát vọng phục hưng Trung Hoa là không đổi và những gì đang diễn ra trên Biển Đông dường như chịu sự chi phối mạnh mẽ của các giá trị cốt lõi từng ăn sâu bám rễ trong truyền thống ứng xử với các quốc gia láng giềng.
![]() Vết gãy trên tàu QNg 90 917 TS do bị tàu Trung Quốc đâm vào ngày 21/5/2013.
|
Nói cách khác, cùng với những biến thiên của lịch sử, quá trình hội nhập sâu vào toàn cầu hóa đang biến Trung Quốc trở thành một quốc gia lớn mạnh tại châu Á và trên thế giới. Trong quá trình phát triển, Trung Quốc luôn coi “đại phục hưng”, “đại chấn hưng Trung Quốc” là mục tiêu hàng đầu trong sự trỗi dậy của quốc gia này. Bước sang thế kỷ XXI, mục tiêu mà các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhiều lần nhấn mạnh là phải đuổi kịp và vượt Mỹ, mở ra “thời đại Trung Quốc” trong lịch sử thế giới, trong đó Trung Quốc đóng vai trò là “quốc gia lãnh tụ”, “lãnh đạo” toàn thế giới. Như vậy, sau hơn hai thiên niên kỷ ra đời và phát triển, dường như tư tưởng Đại Hán “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” hay là sự chấn hưng văn hóa Khổng giáo vẫn tiếp tục được sử dụng trong mục tiêu trở thành cường quốc số một lãnh đạo thế giới của Trung Quốc trong tương lai. Nếu sự lặp lại mô hình cổ xưa thành sự thật và tâm lý văn hóa luôn có khả năng chi phối mãnh liệt tới hành vi ứng xử của mỗi quốc gia, thì ở vị thế này, rõ ràng Trung Quốc luôn luôn muốn biến Việt Nam thành vệ tinh trong vòng ảnh hưởng và gây áp lực đối với Việt Nam trong các vấn đề liên quan tới lợi ích cốt lõi của mình.
Từng trải qua mối quan hệ đặc biệt trong lịch sử, Việt Nam không khó nhận ra mục tiêu này của Trung Quốc. Nói cách khác, ngày nay, trong quan hệ ngoại giao, mặc dù cả Trung Quốc và Việt Nam đã đi đến sự đồng thuận trong phương châm 16 chữ “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và các bản Tuyên bố chung những năm sau này, hai bên đã đi đến khẳng định, tiếp tục duy trì cơ chế đàm phán hiện có; không tiến hành các hành động làm phức tạp thêm hoặc mở rộng tranh chấp, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc vẫn kết hợp “sức mạnh cứng” với “sức mạnh mềm” nhằm đạt được lợi ích cốt lõi của mình tại Biển Đông. Cụ thể trong thời gian từ cuối năm 2007 đến nay, Trung Quốc thực hiện hàng loạt hoạt động làm cho tình hình an ninh khu vực Biển Đông xấu đi và quan hệ Việt – Trung trở nên nhạy cảm.
- Trung Quốc đã phái tàu “Ngư chính” xuống Biển Đông nhằm khẳng định chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa, Trường Sa.
- Lực lượng tuần tiễu quân sự của Trung Quốc gây sức ép để các công ty năng lượng nước ngoài (BP của Anh, Exxon Mobil của Mỹ) ngừng hoạt động hợp tác thăm dò dầu khí với Việt Nam.
- Thành lập thành phố “Tam Sa” thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý 3 quần đảo trong đó có Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, nhằm hợp pháp hóa về mặt hành chính chủ quyền của Trung Quốc với các đảo.
- Đơn phương tuyên bố cấm bắt cá ở một số vùng trong khu vực Biển Đông. Gia tăng xua đuổi, bắt giữ tàu cá, tịch thu ngư lưới cụ, đòi tiền chuộc đối với ngư dân Việt Nam… khi họ đang lao động trong khu vực đánh bắt cá truyền thống lâu đời.
- Tháng 5/2009, Trung Quốc phản ứng quyết liệt sau khi Việt Nam và Malaysia đệ trình “Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa” của Liên Hợp quốc yêu sách chung về thềm lục địa Biển Đông. Lần đầu tiên, Trung Quốc trình lên Liên Hợp quốc một văn bản chính thức về yêu sách chủ quyền đối với vùng “lưỡi bò”, chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông và bao trọn 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.
- Cùng với việc đưa ra yêu sách đường lưỡi bò, chỉ trong năm 2010, nhằm tăng sức ép quân sự với các bên có liên quan đến tranh chấp Biển Đông, Trung Quốc đã tiến hành 4 cuộc tập trận quy mô lớn ven bờ biển; Cũng trong năm 2010, tàu lặn Trung Quốc cắm cờ Trung Quốc xuống đáy Biển Đông để chứng minh chủ quyền
- Gần đây là chuỗi sự kiện bắt đầu từ vụ tàu Bình Minh 02 bị 3 tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp thăm dò diễn ra vào ngày 26/5/2011. Tiếp đến ngày 9/6/2011, một tàu thăm dò dầu khí khác của Việt Nam thuê lại bị "tàu cá" của Trung Quốc (mang số hiệu 6226) chạy với tốc độ cao dùng "thiết bị chuyên dụng" cắt dây cáp, khiến tàu này phải ngừng hoạt động.
- Đặc biệt là sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 ra Biển Đông và huy động hàng chục máy bay, tàu để uy hiếp, cản trở lực lượng cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, va chạm với tàu cá của ngư dân và tàu của lực lượng kiểm ngư của Việt Nam.
Chuỗi sự kiện này đánh dấu sự leo thang trong tranh chấp Biển Đông, được phía Việt Nam xem là hành động vi phạm chủ quyền nghiêm trọng nhất mà Trung Quốc từng thực hiện tại vùng biển của Việt Nam, gây tác động xấu đến sự phát triển bình thường của quan hệ hai nước.
Xâu chuỗi các sự kiện trên, có thể thấy trong cách hành xử của Trung Quốc thường tồn tại mâu thuẫn giữa hành vi và lời nói. Đặc biệt khi cần phải giải quyết tranh chấp trên biển bằng biện pháp đối thoại, Trung Quốc thường nhấn mạnh tới các phương châm mang tính định hướng hơn là các giải pháp dựa trên cơ sở pháp lý, ví dụ như Công ước Luật Biển của Liên Hợp quốc. Chính cách hành xử này đang khiến cho cộng đồng quốc tế quan ngại về cách mà Trung Quốc thực thi “sức mạnh mềm” trong khu vực.
Khác với “sức mạnh cứng” có hàm ý là khả năng áp đặt, cưỡng chế người khác bằng đe dọa và vũ lực, “sức mạnh mềm” theo lý thuyết của J.Nye, là sức hấp dẫn, thu phục, khả năng ảnh hưởng, lôi cuốn của một quốc gia đối với các quốc gia khác bằng các giá trị văn hóa, tinh thần, hệ tư tưởng, mô hình phát triển, hệ thống thể chế, chính sách đối nội, đối ngoại của mình. Về bản chất, “sức mạnh mềm” chính là một lý thuyết dựa trên hành vi ứng xử trong quan hệ quốc tế làm nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, gia tăng vị thế quốc gia trong môi trường trong an ninh, hoà bình, thịnh vượng và qua đó thể hiện khả năng chi phối trật tự quốc tế ở mức độ cao nhất. Do đó, “sức mạnh mềm” được Trung Quốc sử dụng như một công cụ thực dụng hơn, quyền biến hơn và tham vọng hơn trong việc thiết lập lại cái gọi là “vùng ảnh hưởng của Trung Quốc”, từ đó khẳng định vị thế lãnh đạo tại khu vực Đông Á và cuối cùng là tham gia cuộc cạnh tranh bá quyền thế giới cùng với Mỹ nhằm tạo ra một trật tự lưỡng cực mới của thế giới. Với tầm nhìn như vậy, trong những năm gần đây, Trung Quốc đặc biệt tăng cường phát huy “sức mạnh mềm” trong quan hệ quốc tế. Trung Quốc từng thể hiện hình ảnh một dân tộc hoà bình, có nền văn hóa lâu đời và là một cường quốc đang lên, hành xử có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Quốc gia này đặc biệt chú trọng dùng các biện pháp kinh tế (thông qua viện trợ, đầu tư, thương mại), văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ để xây dựng và mở rộng ảnh hưởng của mình ra thế giới.
Tuy nhiên, trái với những nỗ lực ban đầu này, Trung Quốc dường như không xác định rõ về vận mệnh cuối cùng của “sức mạnh mềm”. Vì vậy, “sức mạnh mềm” của Trung Quốc đang còn thiếu nhiều tiêu chí cần và đủ để tạo nên hệ giá trị có khả năng đảm bảo tính hấp dẫn và sự thuyết phục xứng tầm với vị trí nước lớn như giới lãnh đạo nước này từng mong đợi. Do đó, “sức mạnh mềm” vẫn được coi là điểm yếu của Trung Quốc và họ vẫn còn phải đi một quãng đường dài để trở thành một nhã lãnh đạo toàn cầu thực sự. Như vậy, “sức mạnh mềm” Trung Quốc đang gặp phải những cản trở từ chính giới hạn khó vượt qua từ chính hành vi ứng xử của mình trong các vấn đề nhạy cảm liên quan tới chủ quyền lãnh thổ và lợi ích quốc gia trên Biển Đông. Cụ thể, các tranh chấp chủ quyền với một số quốc gia ASEAN đã làm suy yếu nghiêm trọng sức thuyết phục của Trung Quốc trong khu vực và rộng hơn. Mối quan hệ xấu đi của Trung Quốc với phương Tây sau sự kiện Thiên An Môn hồi năm 1989 chính là điều nhắc nhở Bắc Kinh về những sai lầm chiến lược gần đây. Trong giai đoạn đó, ASEAN đã đóng vai trò quan trọng như một cầu nối cho Trung Quốc đến với thế giới bên ngoài. Thực tế, Trung Quốc đã phải nhờ cậy rất lớn vào mối quan hệ với ASEAN để từng bước khôi phục lại quan hệ ngoại giao bình thường với phương Tây. Do đó, sự quá cứng rắn và thiếu kiềm chế của Trung Quốc trên Biển Đông dù không nhanh chóng nhưng chắc chắn sẽ làm xói mòn hình ảnh tích cực của nước này với vai trò là một cường quốc “sức mạnh mềm” đang trỗi dậy hòa bình trong con mắt của các nước láng giềng ASEAN. Các quốc gia trong và ngoài ASEAN đang trở nên hết sức cảnh giác với sự trỗi dậy của Trung Quốc. Cho dù sức mạnh kinh tế cũng như vị thế toàn cầu đã tăng lên, nhưng sức hấp dẫn, tính thuyết phục và ảnh hưởng của “sức mạnh mềm” Trung Quốc đối với bên ngoài cũng đang suy giảm đáng kể. Tiếp đến, thái độ quyết liệt của Trung Quốc đã dẫn tới việc Mỹ xác định lại ưu tiên trong chiến lược toàn cầu của mình với sự “xoay trục” hay “tái cân bằng” hướng về khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tiếp nữa, thái độ cứng rắn và gây hấn với các nước lân bang cũng cũng ảnh hưởng đến tương lai “sức mạnh mềm” Trung Quốc trên thế giới. Và chừng nào Trung Quốc chưa tạo dựng được lòng tin và tình hữu nghị đủ lớn đối với các nước láng giềng, chừng nào cách hành xử luôn đẩy các quốc gia láng giềng vào tình thế thách thức các giới hạn kiềm chế, thì việc Trung Quốc trở thành “siêu cường” dẫn dắt, lôi kéo và thuyết phục toàn cầu sẽ vẫn chỉ là một giấc mơ xa vời.