Đẻ không đau tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Mới triển khai chưa đầy nửa năm, nhưng kỹ thuật đẻ không đau tại Bệnh viện (BV) Đa khoa Hà Đông đã thu hút nhiều sản phụ chọn phương pháp này để sinh con.

Giám đốc BV Đa khoa Hà Đông Đào Thiện Tiến cho biết, kỹ thuật đẻ không đau hiện đã được thực hiện thường quy tại BV, nhờ đó, nhiều sản phụ giảm được sự đau đớn khi sinh con. Đây là phương pháp gây tê ngoài màng cứng, tức là tiêm thuốc gây tê vào vùng cột sống ở thắt lưng (vùng này chứa các dây thần kinh chi phối các cảm giác đau từ vùng bụng trở xuống). Nhờ tác dụng của thuốc tê, các cơn co tử cung vẫn xảy ra đều đặn và thúc đẩy cuộc chuyển dạ nhưng sản phụ sẽ không có cảm giác đau. Bác sĩ Đào Thiện Tiến cho biết thêm, phương pháp này có ưu điểm là giúp sản phụ tiết kiệm sức để rặn đẻ tốt hơn vì không phải trải qua những cơn đau chuyển dạ. Thuốc tê có thể kéo dài để giảm đau sau đó nhiều giờ, đặc biệt lúc khâu tầng sinh môn sau đẻ và không ảnh hưởng đến em bé vì không qua nhau thai.

Với việc áp dụng kỹ thuật đẻ không đau, sản phụ sẽ được thư giãn, không bị tăng huyết áp, đau đầu gây thiếu oxy cho thai nhi. Tuy nhiên, một số sản phụ có thể gặp trạng thái chóng mặt, ớn lạnh, buồn nôn hay khó vận động chân ngay sau khi tiêm thuốc. Một số trường hợp khác có thể bị nhức đầu nhẹ, đau lưng trong thời kỳ hậu sản. Nhưng các triệu chứng này không nguy hiểm và sẽ tự hết sau vài giờ. Hiếm hơn, một số người có thể có cảm giác lạ vùng mông, đùi (như kiến bò, rát bỏng) trong thời gian ngắn hậu sản và sau đó sẽ tự khỏi.

Đề cập đến việc thực hiện kỹ thuật này, bác sĩ Dương Thị Bế - Trưởng khoa Sản, BV Đa khoa Hà Đông cho biết thêm, để thực hiện một ca đẻ không đau, bác sĩ sản khoa sẽ phải khám thật chi tiết cho sản phụ để biết tiểu sử bệnh lý, tình trạng chuyển dạ, tình trạng cơn co và xem có phù hợp với phương pháp sinh này không. Phương pháp sinh này phù hợp với các sản phụ có các bệnh như tăng huyết áp, bệnh tim…, nhưng lại không được áp dụng cho các sản phụ có bệnh lý liên quan đến cột sống, rối loạn đông máu hoặc đang có tình trạng nhiễm trùng. Mặc dù đây là phương pháp không quá khó, nhưng để ứng dụng đòi hỏi người thực hiện phải thật nhuần nhuyễn về kỹ thuật nhằm tránh xảy ra những tác hại ngoài mong muốn và phải thực hiện ở nơi có đầy đủ trang, thiết bị theo dõi sức khỏe mẹ và con.