Định hướng cho nông dân sản xuất an toàn

Bình Minh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất của các vùng rau an toàn (RAT) trên địa bàn TP, năm 2019, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật (BVTV) Hà Nội đã mở nhiều lớp tập huấn kỹ năng chuyên sâu cho nông dân cũng như triển khai các mô hình sản xuất RAT áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới.

Với mục tiêu xây dựng địa chỉ tin cậy về cung ứng sản phẩm RAT bảo đảm chất lượng, năm 2019, Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật huyện Mê Linh đã thực hiện mô hình bón khô dầu đậu tương, cải tạo đất trên cây hành ăn lá.
Hạch toán kinh tế cho thấy, mô hình cho hiệu quả kinh tế đạt bình quân 6,8 triệu đồng/sào, cao hơn 1,4 triệu đồng/sào so với tập quán canh tác cũ. Đáng chú ý, với phương thức sử dụng phân bón hữu cơ đất trồng trở nên tơi xốp, hạn chế sự phát sinh của các sâu bệnh hại, nhờ đó, cây sinh trưởng khỏe hơn và giảm được 2 lần số lần phun thuốc BVTV.
 Nông dân xã Tiên Dương, huyện Đông Anh thực hành mô hình trồng su hào che vòm nilon. Ảnh: Ánh Ngọc
Đây là năm thứ hai mô hình kiểm tra cộng đồng áp dụng hệ thống bảo đảm có sự tham gia truy xuất nguồn gốc (PGS) trong sản xuất và tiêu thụ RAT được thực hiện trên địa bàn huyện Gia Lâm. Theo Trạm trưởng Trạm Trồng trọt và BVTV huyện Gia Lâm Hoàng Thị Thúy Nga, sau thời gian thực hiện mô hình, nông dân đã có chuyển biến rõ nét trong sử dụng thuốc BVTV, phân bón trên rau.
Đặc biệt, nông dân tuấn thủ việc thu hoạch rau bảo đảm thời gian cách ly và ghi chép nhật ký đồng ruộng đầy đủ phục vụ dán tem truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Chi cục trưởng Chi cục Trồng trọt và BVTV Hà Nội Nguyễn Mạnh Phương cho biết, từ đầu năm đến nay, Chi cục đã mở 55 lớp IPM trên cây rau (28 lớp đã kết thúc khóa học); 20 mô hình bẫy bả chua ngọt phòng trừ sâu khoang và sâu đục cà chua; 21 mô hình thử nghiệm sử dụng bẫy dính phòng trừ sâu hại trên rau.
Bên cạnh đó, Chi cục thường xuyên tuyên truyền cho nông dân quy định về ATTP, quy trình kỹ thuật, kiến thức khoa học, kinh nghiệm canh tác RAT. Nhờ đó, đến nay, tỷ lệ sử dụng thuốc thảo mộc, sinh học đạt khoảng 60% và theo đó, giảm khoảng 30% số lần và số lượng thuốc BVTV hóa học trên cây trồng. Khảo sát thực tế cho thấy, nông dân đã tuân thủ thời gian cách ly khi thu hái sản phẩm, giảm đáng kể tỷ lệ mẫu rau phân tích vượt dư lượng thuốc BVTV tối đa cho phép.
Thời gian tới, để kiểm soát chất lượng RAT, giúp truy xuất nguồn gốc sản phẩm, tạo niềm tin cho người tiêu dùng, Chi cục Trồng trọt và BVTV tăng cường theo dõi, kiểm tra tiến độ, kỹ thuật sản xuất trên các loại cây trồng, đặc biệt là RAT.
Chi cục tiếp tục hỗ trợ một số loại phân bón và thuốc BVTV có nguồn gốc thảo mộc vừa tăng hiệu quả kinh tế, vừa giảm độc hại cho môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân. Đồng thời, chú trọng xây dựng và duy trì các tổ/nhóm sản xuất an toàn, góp phần thay đổi cơ bản quy trình từ sản xuất đến tiêu thụ RAT nhằm hướng đến lợi ích đa chiều.