Dự trữ bắt buộc và câu chuyện lãi suất

Trâm Anh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Tối 2/12, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) thông báo giảm mạnh lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc của các ngân hàng sau 14 năm duy trì. Việc giảm lãi suất trên được các chuyên gia lý giải do sự điều tiết và can thiệp khá nhịp nhàng của NHNN.

Khách hàng giao dịch tại HDBank chi nhánh Hà Nội. Ảnh: Thanh Hải
Giảm áp lực lạm phát
Theo thông báo của NHNN, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam của các ngân hàng giảm còn 0,8%/năm thay vì mức 1,2%/năm so với trước đó. Lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc về mốc 0%/năm. Đối với ngoại tệ, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc là 0%/năm, còn vượt dự trữ bắt buộc 0,05%/năm.

Việc giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc về 0,8%/năm có ảnh hưởng, nhưng không đáng kể tới lợi nhuận của các ngân hàng vì tỷ lệ dự trữ bắt buộc của các ngân hàng hiện nay ở mức thấp, chỉ 3%. Đồng thời, nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, bởi hiện tại, chi phí trả lãi cho khoản tiền gửi này được trích từ ngân sách Nhà nước. 

TS Cấn Văn Lực

Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, tiền gửi dự trữ bắt buộc là khoản tiền mà các tổ chức, DN hoạt động trong lĩnh vực tín dụng tại Việt Nam có nghĩa vụ phải duy trì trên tài khoản thanh toán tại NHNN. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc phụ thuộc vào quy mô và tính chất hoạt động của các ngân hàng và tổ chức tín dụng (TCTD) khác nhau. Theo quy định hiện nay là 3% và 1% đối với tiền đồng; 8% và 6% đối với ngoại tệ. Có nghĩa cứ huy động được 100 đồng thì ngân hàng được cho vay 97 đồng và dành 3 đồng cho dự trữ bắt buộc. “Nếu được giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì chi phí sẽ giảm, qua đó tăng khả năng cho vay, tăng hệ số mở rộng tiền gửi…, hỗ trợ khả năng sinh lời của các ngân hàng” - TS Nguyễn Trí Hiếu nói. Tuy nhiên, NHNN hoàn toàn không nhắc gì đến việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà chỉ giảm mạnh lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc của các ngân hàng sau 14 năm duy trì.
Trong những năm gần đây, để hỗ trợ các DN hoạt động trong lĩnh vực tài chính tín dụng có thể giảm lãi suất cho vay thì NHNN đã tăng mức lãi của tiền gửi dự trữ bắt buộc lên đáng kể, có tác động tích cực tới nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên khi tình hình kinh tế đã ổn định, lãi suất dự trữ bắt buộc lại được điều chỉnh giảm sao cho phù hợp và không gây ra lạm phát. Một số chuyên gia cho rằng, bên cạnh việc điều chỉnh lãi suất điều hành chủ chốt và yêu cầu các ngân hàng thương mại Nhà nước giảm lãi suất để định hướng thị trường vừa qua, trong bối cảnh nền kinh tế chịu từ sự tác động của lạm phát và tỷ giá cuối năm, thì việc cân nhắc đến liều thuốc giảm lãi suất dự trữ bắt buộc vào lúc này có lẽ là không thừa.
Tránh vòng luẩn quẩn
Ngoài ra, NHNN cũng quy định mức lãi suất tiền gửi của Kho bạc Nhà nước (KBNN) tại NHNN đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam là 1%/năm, lãi suất đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của Bảo hiểm tiền gửi là 0,8%/năm. Lãi suất đối với tiền gửi bằng ngoại tệ của KBNN giảm từ 0,5% xuống 0,05%/năm.

KBNN cứ phát hành trái phiếu Chính phủ để huy động vốn theo kế hoạch được giao từ đầu năm tài khóa. Vòng luẩn quẩn này, KBNN huy động vốn từ các ngân hàng rồi lại đem gửi lại cho chính các ngân hàng, cứ lặp đi lặp lại. Thiệt hại đầu tiên chính là NSNN. Nếu càng kéo dài càng gây tốn kém cho ngân sách quốc gia, vì vậy nếu hoàn thành được kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công trong năm nay và giải quyết những tồn đọng của năm cũ sẽ giảm được tình trạng ứ đọng vốn tại các ngân hàng thương mại như hiện nay. 

TS Bùi Quang Tín

Có một thực tế là, tình hình giải ngân vốn đầu tư công ì ạch, đã tạo ra một lượng lớn tiền nhàn rỗi chảy mạnh hơn vào tài khoản tại các ngân hàng. Số liệu được các ngân hàng lần lượt công bố báo cáo tài chính quý III/2019, chỉ tính riêng tại Vietcombank và BIDV, số dư tiền gửi Kho bạc Nhà nước (đầu mối trực tiếp quản lý nguồn của Chính phủ) đã lên tới gần 150.000 tỷ đồng. Dự kiến số dư tại hai thành viên chưa công bố báo cáo tài chính quý III/2019 là VietinBank và Agribank cũng đáng kể, góp phần đưa tổng số tiền của KBNN tại các ngân hàng thương mại ở quy mô lớn. Cùng với đó, số dư gửi tiền có kỳ hạn ở các ngân hàng liên tục tăng lên qua các quý từ đầu 2019. Khi gửi ngân hàng ở dạng có kỳ hạn thì nắm được lãi suất cao hơn hàng chục lần so với để ở không kỳ hạn, như tại Vietcombank gửi 1 - 12 tháng được lãi suất 4,5 - 6,5%/năm.
Việc gửi tiền có kỳ hạn ở các ngân hàng thương mại có thể xem là bất đắc dĩ, khi mà giải ngân đầu tư công, giải ngân vốn ODA… những năm qua và cho đến nay vẫn tắc nghẽn. Trong khi Chính phủ vẫn phải liên tục phát hành trái phiếu đi vay. KBNN vẫn phải thực hiện phát hành trái phiếu Chính phủ, trung bình mỗi năm khoảng gần 200.000 tỷ đồng.
Tiền huy động không sử dụng hết được KBNN “ngâm” trong ngân hàng. Lượng tiền gửi khổng lồ này có ảnh hưởng rất lớn đến cung tiền của nền kinh tế. Dĩ nhiên, tiền gửi của đầu mối này có phần nhằm mục đích “nằm chờ” giải ngân, nhưng nếu các khoản tiền gửi kỳ hạn ngắn này chảy vào các tài sản đầu cơ, nhất là thị trường chứng khoán, BĐS có thể tác động tiêu cực đến thị trường tài chính, hệ quả sẽ là rất lớn nếu như nó không được kiểm soát và lan ra toàn bộ nền kinh tế.
Động thái của NHNN nhằm giảm thiểu tới mức tối đa lượng tiền thừa của KBNN trong khi ngân sách vẫn phải chi trả lãi suất đều đặn hàng ngày. Ý trên được lý giải cho sự điều tiết và can thiệp khá nhịp nhàng của NHNN, tốt cho chính sách tài khóa, buộc phải đẩy vốn ra thị trường.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần