Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU: Chăn nuôi nông hộ chịu nhiều sức ép

Phương Nga
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - “Bên cạnh những cơ hội, hội nhập sẽ tạo áp lực cạnh tranh mạnh mẽ lên cả người sản xuất và thị trường bán lẻ thịt lợn, trong đó, tác động nhiều hơn đến hộ quy mô gia trại và trang trại khi doanh thu phụ thuộc cao vào chăn nuôi” – là khẳng định của ông Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn (IPSARD), trong hội thảo “Phát triển chăn nuôi bền vững trong bối cảnh hội nhập và đảm bảo an toàn dịch bệnh”.

 Toàn cảnh hội thảo
Ông Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược Phát triển nông nghiệp nông thôn cho biết: Sau 1 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch tả lợn châu Phi (DTLCP), ngành chăn nuôi lợn nước ta đã thiệt hại trên 5,9 triệu con lợn, với tổng trọng lượng khoảng 341.000 tấn, chiếm 9% tổng đàn; sản lượng thịt lợn trong năm 2019 chỉ đạt 3,3 triệu tấn, giảm 13,8% so với năm 2018.
Do không có số liệu thống kê chính xác trong số lợn tiêu hủy trên có bao nhiêu lợn nái, trong khi đây là đối tượng phát triển sản phẩm thương phẩm trong tương lai. Do đó, để đánh giá tác động của dịch bệnh tới cung cầu ngành hàng lợn, nhóm nghiên cứu của IPSARD đã xây dựng 2 kịch bản mô phỏng dựa trên đàn nái.
Cụ thể: Kịch bản 1 với đàn nái bị thiệt hại 10% (tương đương khoảng 580.000 con) và kịch bản 2 với đàn nái bị thiệt hại 20% (tương đương 1.160.000 con). Cùng với các kịch bản nền về sự tăng trưởng GDP, CPI, dân số, tỷ giá, giá nguyên liệu thức ăn… nhóm nghiên cứu chỉ ra, DTLCP có tác động trực tiếp đến nguồn cung thịt lợn trong nước, có thể làm giảm từ 20% (kịch bản 1) đến 35% (kịch bản 2) tổng cung thịt lợn nội địa tính đến năm 2020.
Do thiếu hụt về nguồn cung sẽ dẫn tới sự tăng giá mạnh mẽ. Theo kịch bản cơ sở, nếu không có DTLCP dự báo giá lợn cổng trại đến 2020 ở mức 46.000 đồng/kg lợn hơi. Dịch tả lợn sẽ khiến giá lợn cổng trại bình quân năm 2019 sẽ tăng khoảng 22% (kịch bản 1), 45,5% (kịch bản 2). Nếu không xảy ra dịch, dự báo sản lượng thịt lợn theo kịch bản cơ sở đến năm 2020 sẽ là 3,9 triệu tấn.
 Tiêu hủy dịch tả lợn châu Phi tại huyện Mỹ Đức, Hà Nội
Với kịch bản 1 xảy ra, sản lượng thịt lợn sẽ giảm còn 3,15 triệu tấn và xuống còn 2,55 triệu tấn nếu kịch bản 2 xảy ra. Do đó, nhập khẩu thịt lợn tăng mạnh đến năm 2020 để phần nào bù đắp lượng thiếu hụt thịt lợn do sụt giảm nguồn cung nội địa gây ra.
Cụ thể, nếu kịch bản 1 xảy ra, lượng thịt lợn nhập khẩu sẽ tăng lên mức 7,1 nghìn tấn (tương đương với mức tăng 29,5%) và lên mức 8,9 nghìn tấn nếu kịch bản 2 xảy ra (tương đương với mức tăng 60%).
Mặc dù tăng mạnh nhưng lượng nhập khẩu là rất nhỏ so vo với lượng cung thịt lợn nội địa. Điều này hoàn toàn có thể lý giải khi mà tiêu dùng thịt lợn có thể được thay thế bởi tiêu dùng một số loại mặt hàng thay thế khác như thịt bò, thịt gà. Sự thiếu hụt về nguồn cung, tăng giá của sản phẩm, chính là các yếu tố gây suy giảm tiêu dùng thịt lợn trong nước. Tiêu dùng thịt lợn nội địa sẽ giảm 14,6% (kịch bản 1) giảm 25% (kịch bản 2). Bởi, hộ chăn nuôi quy mô lớn hơn có xu hướng mong muốn tái đàn sớm với quy mô tái đàn thấp trong khi hộ chăn nuôi nhỏ có xu hướng ngược lại.
Hiện, giá thịt lợn hơi đã bắt đầu hạ nhiệt, trong khi giá con giống khá cao, khiến việc tái đàn của các nông hộ gặp nhiều khó khăn.
Theo ông Nguyễn Ngọc Sơn - Chi Cục trưởng Chi cục Chăn nuôi - Thú y (Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội), hiện việc tái đàn trên địa bàn chủ yếu ở các trang trại lớn, đảm bảo an toàn sinh học, nông hộ nhỏ vẫn chưa dám tái đàn.
Từ thực tế này, có thể thấy chăn nuôi nông hộ dường như đang vô cùng khó khăn khi tìm kiếm cơ hội trong ngành chăn nuôi. "Chỉ cần một cơn bão như DTLCP cũng sẽ khiến những hộ chăn nuôi nhỏ giảm đi đáng kể" - ông Trần Công Thắng nhận định.
Cũng theo ông Trần Công Thắng, hội nhập cũng sẽ tạo áp lực cạnh tranh mạnh mẽ lên cả người sản xuất và thị trường bán lẻ thịt lợn, trong đó, tác động nhiều hơn đến hộ quy mô gia trại và trang trại khi doanh thu phụ thuộc cao vào chăn nuôi.
Bên cạnh những thách thức, ông Trần Công Thắng cho rằng, đây là cơ hội để tái cơ cấu ngành chăn nuôi. Do đó các chính sách của Nhà nước cần ưu tiên hỗ trợ các các địa phương, các DN xây dựng các chuỗi, vùng an toàn dịch bệnh; hỗ trợ hộ chăn nuôi quy mô nhỏ chuyển đổi sản xuất sang ngành nghề khác; phát triển chăn nuôi gia cầm, gia súc ăn cỏ… đảm bảo an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học để đảm bảo nguồn cung thịt trong nước. Kiểm soát tốt công tác tái đàn. Tăng cường công tác cảnh báo sớm, thông tin dự báo thị trường.
Về hỗ trợ đền bù thiệt hại, cần ưu tiên phân bổ ngân sách phòng chống và hỗ trợ thiệt hại do bệnh DTLCP đối với những tỉnh xác định chăn nuôi lợn là sản phẩm chủ lực cấp tỉnh.
Ông Trần Công Thắng cũng cho rằng, các DN cần nâng cao năng lực cạnh tranh, xây dựng chuỗi liên kết, hỗ trợ hình thành các hợp tác xã và tăng liên kết với DN; tăng đầu tư vào vùng chuyên canh nguyên liệu, kết nối với hộ sản xuất. Cải thiện giống, kỹ thuật chăn nuôi để tăng năng suất, giảm giá thành; tập trung nâng cao chất lượng an toàn thực phẩm. Đối với người nông dân, cần liên kết để hình thành các tổ hợp tác, hợp tác xã, chủ động nắm bắt thông tin thị trường.