Hướng đến nền nông nghiệp đô thị, công nghệ cao
Để tận dụng và phát huy những thế mạnh này, 5 năm qua, Hà Nội đã không ngừng quan tâm, đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp với những cơ chế, chính sách phù hợp. Phóng viên báo Kinh tế & Đô thị đã có cuộc trao đổi với ông Hoàng Thanh Vân - Giám đốc Sở NN&PTNT xung quanh vấn đề này.
Thưa ông, sau khi mở rộng địa giới hành chính, nông nghiệp Hà Nội đã có thêm những điểm đặc biệt gì. Hay nói cách khác, nông nghiệp Hà Tây đã "đóng góp" thêm gì cho Hà Nội?
- Sau khi mở rộng địa giới hành chính, diện tích đất nông nghiệp toàn TP Hà Nội tăng lên đáng kể. Trước đây, Hà Nội có 5 huyện ngoại thành với diện tích đất nông nghiệp khoảng hơn 30.000ha, sau khi hợp nhất đã thêm 14 đơn vị hành chính nên diện tích đất nông nghiệp tăng lên 187.000ha và hiện nay là 167.000ha.
Trước đây, sản xuất nông nghiệp của Hà Tây chủ yếu theo hướng truyền thống. Bởi thế, việc hợp nhất đã làm phong phú thêm bản sắc cho nông nghiệp Hà Nội, vừa mang hơi hướng nông nghiệp thuần túy, vừa có sắc thái của nông nghiệp đô thị, công nghệ cao. Đặc biệt, tư duy của người dân nông thôn cũng có những đổi mới, rộng mở hơn, hướng về TP và bản thân những người nông dân cũng cảm nhận được khí thế mới nên rất hứng thú, hăng say lao động. Đây chính là nền tảng quan trọng tạo ra bản sắc rất đặc biệt cho nông nghiệp Hà Nội.
Sau khi hợp nhất, nông nghiệp Hà Nội phát triển rất đa dạng. Bởi thời điểm trước khi hợp nhất, nông nghiệp của Hà Tây cũng đang trong giai đoạn "cất cánh" với định hướng sẽ xây dựng mỗi huyện một sản phẩm. Nhưng sau khi có những khó khăn nhất định thì chuyển sang xây dựng vùng sản xuất hàng hóa, khai thác lợi thế của ba vùng là đồi gò, đồng bằng và vùng trũng. Tỉnh Hà Tây đã có chiến lược, chính sách cụ thể để triển khai định hướng này.
Đặc biệt, Hà Tây có số lượng làng nghề phong phú, tới trên 1.000 làng nghề, trong đó có trên 200 làng nghề được công nhận, góp phần rất lớn vào sự phát triển của ngành nông nghiệp Thủ đô, tạo ra nhiều sản phẩm đặc sắc, hiếm nơi nào có được.
Theo ông, sau khi hợp nhất, nông nghiệp Hà Nội có những thuận lợi và khó khăn gì?
- Thuận lợi lớn nhất của ngành nông nghiệp sau khi hợp nhất là kế thừa được kinh nghiệm chỉ đạo sản xuất và truyền thống canh tác của cả hai địa phương. Cùng với đó, lực lượng người dân sống ở khu vực nông thôn rất đông (chiếm tới trên 70%), đây là lực lượng lao động cơ bản. Bên cạnh đó, TP có điều kiện về ngân sách, đầu tư cho nông nghiệp, giúp ngành nông nghiệp triển khai các kế hoạch, đề án, nhằm sớm đưa nông nghiệp Hà Nội tiến tới nền nông nghiệp đô thị, sinh thái.
Trồng hoa trong nhà lưới tại thôn Hạ, xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm. Ảnh: Thu Năm
Còn khó khăn, trước hết phải kể đến sau khi hợp nhất là phải thống nhất quy hoạch. Sau gần hai năm xây dựng, công tác quy hoạch đã hoàn thành. Trước yêu cầu cao của TP, nông nghiệp Hà Nội còn gặp những khó khăn về nhân lực, con người, trình độ cán bộ… Để đáp ứng những yêu cầu này là cả một vấn đề, tuy nhiên vẫn có thể vượt qua, chỉ cần có quyết tâm cao.
Trong 5 năm qua, TP đã dành sự quan tâm rất lớn cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, ông có thể nói rõ hơn về điều này?
- Sự quan tâm của TP có thể tính bằng ngày. Sau khi hợp nhất, ngành nông nghiệp đã nhận được sự quan tâm của cả Thành ủy, HĐND, UBND TP. Nông thôn được quan tâm hơn thành thị. Ngày 1/8/2008, Hà Tây hợp nhất về Hà Nội thì ngày 5/8/2008, Ban Chấp hành T.Ư đã ra Nghị quyết 26 - NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ngay sau đó, Thành ủy đã thảo luận, nghiên cứu và ban hành Chương trình hành động số 02 (khóa XIV), tập trung đầu tư, phát triển nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân. Tôi còn nhớ, ngay sau khi hợp nhất, 4 xã của Hòa Bình là Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Trung, Yên Bình đã được TP cử cán bộ lên tận nơi để xem xét, giải quyết những vấn đề dân sinh như điện, đường… Nhờ vậy, sau khi hợp nhất, 4 xã này có điện ngay, khiến bà con rất phấn khởi.
Sự quan tâm của TP thể hiện rõ nhất ở sự lãnh đạo, chỉ đạo. Trong hầu hết các chương trình, kế hoạch, nghị quyết của Thành ủy, HĐND, UBND TP, những vấn đề, quyết sách về nông nghiệp luôn được quan tâm nổi trội hơn so với những ngành khác. Trong 9 Chương trình công tác của Thành ủy thì lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, nông thôn được xếp vào Chương trình 02. Các ban bệ được thành lập, thời lượng báo cáo của lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tại Thành ủy được tăng lên…
5 năm qua, đầu tư trực tiếp của TP cho nông nghiệp khoảng 4.100 tỷ đồng, bao gồm cả ngân sách TP, ngân sách T.Ư và trái phiếu Chính phủ, đó là chưa kể vốn lồng ghép từ các chương trình khác. Đáng nói là, số tiền đầu tư cho nông nghiệp tăng dần qua các năm, từ hơn 20% đến nay là 30% tổng ngân sách TP.
Từ sự đầu tư đó, ngành nông nghiệp Hà Nội đã làm được những gì và điều đó đã tác động như thế nào đến người dân?
- Sự đầu tư đó đã giúp cho bộ mặt của nông thôn Hà Nội từ năm 2008 đến nay có sự thay đổi lớn: Từ y tế, giáo dục đến văn hóa, xã hội. Chỉ tính riêng giao thông nội đồng, đã có hàng ngàn ki lô mét được xây dựng. Giao thông thôn, xóm khoảng 12.000 ki lô mét, trong đó, 6 tháng đầu năm nay đã có 2.000 ki lô mét được xây dựng. Điều đó đã khiến cho sự tin tưởng của người dân ở khu vực nông thôn vào TP ngày càng cao hơn.
Thu nhập của người dân nông thôn tăng lên đáng kể. Năm 2008 là hơn 8 triệu đồng/người/năm thì nay tăng lên 21 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn giảm mạnh, từ 8 - 9% năm 2008 xuống còn khoảng 4% như hiện nay, trung bình giảm gần 2%/năm. Sản xuất nông nghiệp thấy rõ 5 mặt khá, đó là: Định hướng sản xuất hàng hóa rõ hơn với các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn như lúa chất lượng cao, tăng từ 2.000 - 3.000ha năm 2008 lên hơn 30.000ha hiện nay, tương lai sẽ tăng lên khoảng 50.000ha. Diện tích rau an toàn tăng từ hơn 800ha lên 5.000ha vào năm 2013. Tốc độ tăng trưởng các sản phẩm chăn nuôi cũng đạt 6 - 7%/năm.
Chất lượng sản phẩm nông nghiệp dần gắn với những chỉ dẫn địa lý, có tên tuổi như: Sữa Ba Vì, ổi Đông Dư, bưởi Diễn, bưởi đường Quế Dương, nhãn muộn Đại Thành… Đặc biệt, hệ thống thủy lợi được đầu tư bài bản và đồng bộ hơn. Ngoài các hệ thống thủy lợi nhỏ, TP còn đầu tư 10 hệ thống thủy lợi lớn, trong đó có những công trình quy mô lớn bậc nhất khu vực Đông Nam Á như Trạm bơm tiêu Yên Nghĩa có công suất 120m3/s, phục vụ tiêu thoát úng cho cả sản xuất nông nghiệp và khu vực nội thành. Ngoài ra, hệ thống đê kè được đảm bảo, làm tốt công tác phòng chống lụt bão của TP.
Vậy, còn cái gì mà ngành nông nghiệp chưa làm được, hoặc muốn làm mà chưa được khiến ông phải trăn trở?
- Muốn gì thì muốn, nông nghiệp Hà Nội vẫn phải hướng tới nền sản xuất hiện đại, công nghệ cao. Hà Nội cũng phải xây dựng một nền nông nghiệp bền vững, sinh thái, thân thiện với môi trường. Song hiện nay, sản xuất nông nghiệp hàng hóa của TP còn nhỏ lẻ, phân tán, thiếu sức cạnh tranh, chưa tạo ra được hiệu ứng, chưa liên kết được vùng để sản xuất, tiêu thụ sản phẩm.
Bên cạnh đó, việc tăng thu nhập trên một đơn vị diện tích vẫn là vấn đề phải suy nghĩ. Cần phải đầu tư nghiên cứu, tăng cường khoa học kỹ thuật cho lĩnh vực nông nghiệp. Đặc biệt, vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn vẫn còn nhiều băn khoăn, trăn trở. Môi trường ngày càng ô nhiễm, xử lý chưa được nhiều; nước sạch còn ít…
Để làm tốt hơn nhiệm vụ của mình, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của TP, ngành nông nghiệp có đề nghị gì, thưa ông?
- Cũng giống như Thủ đô các nước trên thế giới, Hà Nội đang đặt ra lộ trình xây dựng nền sản xuất nông nghiệp đô thị sinh thái, công nghệ cao. Để đạt được mục tiêu này, trước mắt, ngành nông nghiệp đề nghị TP quan tâm đến 3 nhóm vấn đề lớn. Đó là:
Thứ nhất, có một bộ chính sách mang đặc trưng của Hà Nội để đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp. Về việc này, ngành nông nghiệp đang tham mưu, đề xuất trình TP một bộ chính sách mang đặc trưng của Hà Nội để tạo điều kiện đầu tư cho nông nghiệp một cách bài bản, đồng bộ và có chiến lược.
Thứ hai, cần tạo cơ hội tiếp xúc về khoa học công nghệ, việc làm cho lao động nông thôn. Người nông dân rất muốn có cơ hội làm việc để nâng cao thu nhập. Nhà nước đã có Đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động nông thôn nhưng khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật, nghề nghiệp của người dân ở một số địa phương vẫn còn khó khăn, bất cập. Do vậy, cần có sự vào cuộc đồng bộ của các cấp, ngành.
Thứ ba, cần có một ngân sách thích hợp đầu tư cho khu vực nông thôn, trong đó có nhiều vấn đề cấp thiết như nước sạch, vệ sinh môi trường, xây dựng vùng sản xuất tập trung…
Ngoài ra, cần có cơ chế tạo điều kiện tốt nhất để các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Cần có chính sách riêng để tạo ra những sản phẩm mới, cách làm mới. Hiện nay, Chính phủ đã có Nghị định 61/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn nhưng chưa hấp dẫn được doanh nghiệp. Do đó, cần phải khơi thông chính sách hỗ trợ này để tạo liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp trong sản xuất, sơ chế, chế biến nông sản, tránh tình trạng để nông dân "tự bơi". Có như vậy, nông nghiệp Thủ đô mới có cơ hội cất cánh lên tầm cao mới.
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, Hà Nội đã có thêm nhiều sản phẩm nông nghiệp nổi tiếng của Hà Tây trước đây như: "Thóc vàng khu Cháy" (Ứng Hòa), vịt cỏ Vân Đình, Phú Xuyên; cam Canh, nhãn muộn tại các vùng đồi gò của Chương Mỹ, Quốc Oai và sản phẩm chăn nuôi rất đa dạng với gần 1.000 trang trại chăn nuôi lớn nhỏ. Những sản phẩm phong phú này hòa nhập với những vùng sản xuất chuyên canh lớn ở Đông Anh, Sóc Sơn... của Hà Nội đã làm nên một sắc thái nông nghiệp tươi mới hơn, rõ nét hơn trong nền kinh tế chung của Thủ đô. |