Hương Xuân, vị Tết trong trang viết của Nguyễn Minh Châu

Bùi Việt Thắng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Ba mươi năm tròn (1989 - 2019), nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta vào độ trăng rằm của tài năng sáng tạo. Tết Kỷ Hợi này, văn giới Việt Nam lại tưởng nhớ đến một “người mở đường tinh anh” trong công cuộc Đổi mới văn học dân tộc sau 1975.

 Người dân Thủ đô mua sắm tại chợ hoa Tết Hàng Lược. Ảnh: Công Hùng
Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989) là nhà văn tài năng, được tôn xưng là “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn chương Việt Nam sau năm 1975. Trong những trang văn để lại cho đời của nhà văn Nguyễn Minh Châu, độc giả cảm nhận được hình ảnh, hương và vị Xuân và Tết cổ truyền dân tộc trong những hình hài khác nhau, hết sức sinh động và gợi nhớ tâm cảm của người cầm bút trước sự xoay vần của thiên nhiên qua bốn mùa.

Trong Di cảo Nguyễn Minh Châu (Nhà xuất bản Hà Nội, 2009), độc giả có dịp nhớ lại không khí Tết Hà Nội từ những năm cuối thập kỉ 50 của thế kỷ XX qua những đoạn văn ngắn được ban biên tập sắp xếp vào phần thứ ba (Riêng tư) của cuốn sách. Hà Nội những ngày Tết năm 1957 là một đoạn ghi chép ngắn nhưng nói được nhiều điều, nó gần với quy lụât của thơ ca “ý tại ngôn ngoại”. Kể và tả cái không khí của Thủ đô sau ngày giải phóng chưa lâu (10/10/1954), tác giả đã làm sống lại cái quang cảnh của một Hà Nội những năm đầu hòa bình với bao bộn bề, khó khăn và phức tạp. Nhưng vượt lên trên tất cả là niềm vui hồ hởi của cư dân Hà Thành đón Tết: “Mình đã dạo những phố Hàng Ngang, Hàng Đào, Tràng Tiền, và những phố gì chưa thuộc hết lối. Chật ních những người. Hình như cả nước có chiếc xe đạp nào đều đem về đây hết. Mình cũng hòa trong cái dòng người sực mùi son phấn và muôn màu sắc ấy (…). Những ngày cuối năm. Trưa chiều ngồi làm việc nghe tiếng còi tàu thét dài, những chuyến tàu chật ních người về quê ăn Tết như những đàn chim về tổ khi mặt trời xuống”. Những dòng văn ấy cho thấy sự hòa nhập thức thời của người lính cách mạng với một vùng đất thiêng.

Trong Di cảo Nguyễn Minh Châu, độc giả tìm thấy nhiều đoạn ghi chép của nhà văn về Tết (các trang 87, 88, 90, 167…). Nhưng có lẽ tập trung và sâu đậm nhất tình cảm của nhà văn về Tết cổ truyền dân tộc là truyện ngắn Chợ Tết (viết tháng 11/1987, in trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 2 năm 1988). Ai xa quê lâu ngày trở về quê vào dịp Tết mới thấy hết cái cảm giác được đi chợ Tết quê mộc mạc, sum vầy. Truyện nhắn có đoạn: “Quãng quá trưa, khi Định được lão Đất dắt đi dụi mả bố mẹ mình trở về thì cả khu chợ đã đông nghịt. Nhất là không khí của nó đã ra dáng một phiên chợ Tết. Trên mảnh đất bom đạn và chiến tranh đã nhào nặn đến biến dạng, Định có dịp thấy tất cả những gì quen thuộc với Định từ nhỏ, chính Định cũng đã quen đi, thì nó vẫn còn đó. Định thích thú ngắm nghía những con lợn đất sơn đỏ, những chiếc kèn cũng bằng đất vắt hình con gà trống, những nhành hoa thờ với những bông hoa bằng giấy kim tuyến lỗ chỗ vết kim châm. Chen lấn giữa đám con nít bâu quanh một chiếc bàn, Định đứng xem một anh chàng đội mũ phớt tàng, mặt rỗ hoa đang vắt con giống. Từ một hàng những vắt bột nếp nhuộm màu ngũ sắc với một chiếc que tre, mười ngón tay cứ thoăn thoắt trong nháy mắt đã làm sống lại những Phàn Lê Hoa, những Quan Công, v.v. Bánh mướt, bánh xèo… Định la cà suốt một dãy bán miếng chín quen thuộc với Định từ bé. Định đi dưới giao thông hào, leo lên bờ hố bom. Các dãy hàng cá, hàng gạo, hàng vôi, hàng nồi đất (…). Một cái gì bao quanh Định, một không khí luôn luôn bao bọc Định, đấy là sự quen thuộc, một nếp sống quen thuộc đã có từ lâu đời và chả có gì bị phá vỡ đang phô diễn trong phiên chợ Tết ban đầu khiến Định say mê và rưng rưng cảm động (…). Lúc bấy giờ, trong một ngôi lều, cô gái coi sập hàng sách quốc doanh đang đổ ngả nửa người xuống giữa mớ tranh Tết, hàm răng trắng nõn nhe ra cười, mải nhìn ra cái hố bom ngay trước mặt lều, ở đấy cả góc chợ đang náo loạn lên. Một con lợn giống bị sổng rọ, người ra đã lùa được chú lợn xuống đáy hố bom nhưng không sao bắt được. Cô gái mải xem trò vui, đến lúc quay nhìn sang bên cạnh mới thấy một ông khác, đã có tuổi đứng đó không biết từ bao giờ, đang nghìn mình. Cô ta vội đứng thẳng dậy (…). Định trao vào tay Kim gói quà, lại cả đôi câu đối Tết. Định cũng đâm ra nhác đọc, mà câu đối Tết năm nào chả viết những câu như mọi năm trước?” (Nguyễn Minh Châu - Tác phẩm chọn lọc, NXB Giáo dục Việt Nam, 2009, trang 244 - 248).

Nhưng có lẽ cảm thức về mùa Xuân, về Tết đậm đà nhất khúc xạ trong bút ký Nghĩ lúc giao thừa (Nguyễn Minh Châu toàn tập, 5 tập, Tập 4, NXB Văn học 2001, trang 964 - 971). Bài bút ký này nhà văn viết ngày 3/1/1984 với sự chiêm nghiệm lẽ đời và quy luật của Tạo hóa: “Mỗi lần tiễn một năm cũ và đón một năm mới về, nghe những người chung quanh nồng nhiệt và thành tâm chúc tụng nhau, tôi cứ nghĩ một cách đầy ngỡ ngàng lẫn sung sướng rằng: Không có gì cũ kĩ như một lời chúc nhau đầu năm, nhưng cũng không có gì hân hoan, mới mẻ và tinh khiết như một lời chúc nhau đầu năm. Đó là niềm lạc quan lẫn hy vọng khắc khoải, bất diệt của con người ta vào những điều tốt đẹp - những điều vẫn hằng thiết tha mong ước lẫn cho nhau - như những cánh én mùa Xuân ở ngoài đời không bao giờ mất (…). Tôi vẫn còn nhớ khi nhỏ còn ở nhà, mỗi đêm ba mươi Tết, mẹ tôi thường nhìn ra ngoài trời, bằng cái nhìn mang phép biện chứng của một người “nhà quê” của người: Đêm ba mươi năm nào thật tối trời là năm ấy mẹ tôi lại thật yên tâm và vui mừng khấp khởi trong lòng, vì lẽ sang năm sẽ được mùa”. Nhưng chữ “giao thừa” mà nhà văn Nguyễn Minh Châu viết trong bài bút ký này còn mang một ý nghĩa khác - nó là sự chuyển giao của hai thời kì đời sống - vì thế mà ông coi ngày 1/5/1975 cũng là một “giao thừa” trong đời sống của cả dân tộc Việt Nam: “Tôi không thể nào quên được cái đêm mồng 1 tháng 5 năm 1975, đúng một ngày sau khi quân ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, cả Hà Nội đổ về phía Bờ Hồ dự đốt pháo hoa mừng đại thắng. Khi những đốm pháo hoa vừa tắt chỉ còn để lại giữa vòm trời sáng trong trên nóc Tháp Rùa những dải khói trắng, thì từ bốn phía Bờ Hồ, các nam nữ thanh niên ồn ào tản đi dạo các đường phố đông đúc của ngày hội, riêng chỉ có những cặp vợ chồng cán bộ và bộ đội ở vào lứa tuổi bốn, năm mươi, mà cuộc đời riêng đã gắn chặt vào số phận đất nước, là vẫn ngồi lại. Họ ngồi đến quá nửa đêm mà vẫn cứ muốn ngồi lại mãi. Đêm ấy mới thật là đêm giao thừa có ý nghĩa nhất đời họ”. Rồi nhà văn trở lại với ý nghĩa đích thực của “giao thừa” truyền thống, đó là giờ khắc chuyển từ năm cũ sang năm mới theo quy luật của tạo hóa, trong một nỗi niềm hân hoan, vui sướng cùng Nhân dân của mình “Giao thừa đã điểm! Khoảnh khắc thời gian tách ra làm đôi, lòng mỗi con người Việt Nam đang tìm đến nhau để sum họp, trong khói pháo và hương trầm ngào ngạt trước bàn thờ tổ tiên, lòng chúng ta sao mà bồn chồn, nao nức, rộn ràng đến khó tả”.

Một năm cũ qua đi, một năm mới lại đến, tấm lòng của nhà văn Nguyễn Minh Châu với đời, với người, với tạo hóa thật đằm thắm, sâu sắc qua những trang văn dù tản mạn về thời gian viết, nhưng lại cô đặc nỗi niềm về mùa Xuân, về Tết.

Hà Nội, tháng 12/2018.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần