Các chuyên gia nói gì về kinh tế Việt Nam năm 2018?

Theo TTXVN
Chia sẻ Zalo

Kinh tế Việt Nam 2018 được các chuyên gia kinh tế nhìn nhận sẽ tiếp đà tăng trưởng.

 PGS Trần Hoàng Ngân - Thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ; Thêm nhiều cực tăng trưởng mới. Ảnh: TTXVN
Năm 2018, kinh tế Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng xuất phát từ cả trong và ngoài nước. Để có cái nhìn rõ hơn về triển vọng kinh tế 2018, phóng viên TTXVN đã ghi lại các ý kiến của các chuyên gia kinh tế.
* PGS Trần Hoàng Ngân - Thành viên tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng Chính phủ: Thêm nhiều cực tăng trưởng mới
Như chúng ta thấy, trong năm 2017 đã có nhiều tín hiệu lạc quan với 13 chỉ tiêu của Quốc hội đề ra đều đạt được; trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP đã vượt mục tiêu đề ra. So với 10 năm qua, đây là năm đầu tiên GDP vượt mục tiêu đề ra.
Bên cạnh đó, xu hướng cải thiện theo hướng tốt, trong năm 2016 tăng trưởng GDP đạt 6,21%, thì đến năm 2017 tăng trưởng GDP đạt 6,81%. Nhưng, điều quan trọng là vẫn giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, nâng cao sức khỏe của nền kinh tế; trong đó có giá trị của đồng tiền; từng bước cơ cấu nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng tăng trưởng...
Từ đó, đã tạo niềm tin cho năm 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ ở mức khá hơn, có thể từ 6,7% trở lên. Nhưng vấn đề là phải giữ được ổn định kinh tế vĩ mô; đồng thời tiếp tục phát huy những giải pháp đã thực hiện trong năm 2017. Chính phủ giao chỉ tiêu cụ thể cho từng ngành, từng địa phương, có kiểm tra giám sát, có tổ công tác sẵn sàng vào các điểm nóng để tháo gỡ khó khăn.
Quan trọng hơn, nền kinh tế của Việt Nam hiện nay không còn phụ thuộc vào một vài thành phố, mà là sự phát triển gần như đồng bộ tại các tỉnh, thành phố trên cả nước, thể hiện một sự quyết tâm của Chính phủ. Ngoài Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bắc Ninh, Quảng Ninh... hay các tỉnh thành mới nổi hiện nay như Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai, Cần Thơ... có rất nhiều các điểm cực mới phát triển.
Và tới đây, khi Quốc hội thông qua Luật về Đặc khu kinh tế hành chính đặc biệt, thì có thêm 3 cực nữa là Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa) và Phú Quốc (Kiên Giang), sẽ tạo ra sự tổng lực cho phát triển kinh tế Việt Nam. Điều này giúp kinh tế phát triển bền vững hơn, tránh phụ thuộc vào chỉ vài địa phương như trước.
Bên cạnh đó, thu hút đầu tư nước ngoài hiện đang có thuận lợi. Trong năm 2017, vốn đầu tư nước ngoài vẫn tiếp tục chảy về Việt Nam, với tổng mức đăng ký là 36 tỷ USD (đã giải ngân 15,7 tỷ USD). Chính vì điều đó, khi vốn đầu tư có độ trễ, sẽ tạo bắc cầu cho sự phát triển trong năm 2018.
Tôi cũng tin tưởng vào Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 ban hành về tính kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo và hiệu quả... Chúng ta hoàn toàn có thể tự tin vào sự phát triển đó.
Tuy nhiên, cũng cần phải hết sức lưu ý, vẫn còn những điểm cần phải luôn luôn có giải pháp phòng ngừa rủi ro, bởi vì chúng ta vẫn phải đối mặt với những thách thức như biến đổi khí hậu rất lớn. Hay vấn đề an ninh mạng còn hạn chế, trong khi đang phát triển cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cách mạng số, đang lan tỏa tới tất cả các lĩnh vực.
Ngoài ra, rủi ro về dòng vốn đầu tư có thể đảo chiều nếu các quốc gia tăng lãi suất và các nhà đầu tư tìm thấy cơ hội đầu tư tại các nước khác thì sẽ ảnh hưởng đến dòng vốn đang đầu tư tại Việt Nam. Bởi trên thế giới hiện nay, đặc biệt các nước trong khu vực họ đều đưa ra những chính sách giống như Việt Nam, họ tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh...
Mặc dù chúng ta làm rất nhiều, nhưng để bắt kịp các nước thì đòi hỏi cần phải có thời gian. Đó là các vấn đề cần quan tâm và hành động trong năm 2018.
 TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Nhiều thuận lợi để phát triển. Ảnh: Thành Trung/BNEWS/TTXVN
* TS. Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Nhiều thuận lợi để phát triển
Năm 2018, kinh tế Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để đạt mục tiêu tăng trưởng từ 6,7% trong khi vẫn có thể thực hiện tốt hơn ổn định vĩ mô và chuyển mạnh hơn sang tăng trưởng dựa vào chất. Nói ngắn gọn có cả các yếu tố thiên thời, địa lợi nhân hòa.
Cụ thể, nền kinh tế thế giới, nhất là các cực tăng trưởng hiện đang trong chu kỳ kinh tế đi lên, với tăng trưởng GDP toàn cầu được được dự báo tăng trưởng cao hơn (IMF dự báo năm 2018 tăng trưởng 3,7% hoặc >3,6%). Các siêu cường thế giới hầu hết đếu đã thoát ra khỏi khó khăn, lấy lại quỹ đạo tăng trưởng mới, kể cả EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc. Trong nước tình hình cũng tương tự, với nhiều kỷ lục được xác lập trong năm 2017.
Bên cạnh đó, Việt Nam nằm trong khu vực phát triển năng động nhất thế giới, có tốc độ tăng trưởng cao nhất và bền vững nhất, với các hiệp định thương mại nhiều nhất tạo nên hệ thống sản xuất rộng lớn, đan xen và năng động.
Đồng thời, trên phương diện đồng lòng của toàn hệ thống chính trị, Nhà nước thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, quyết liệt, hành động và chống tham nhũng thì từ năm 2000 đến nay chưa bao giờ Việt Nam được như thế.
Tuy nhiên, rủi ro trỗi dậy mạnh hơn của bảo hộ thương mại, nhất là của Mỹ vẫn còn hiện hữu và không thể xem thường. Thiên tai nhất là các vấn đề có liên quan đến biến đổi khí hậu cũng không giảm sút.
Tóm lại, nếu trong năm 2018 không có biến động đột biến lớn trên các phương diện trên, thì Việt Nam có thể đạt mục tiêu tăng trưởng 6,7%, thậm chí là cao hơn do đà tăng trưởng kinh tế, đà thay đổi thể chế và tinh thần, kỳ vọng năm trước tiếp tục được khơi thông.
 TS Lê Xuân Nghĩa - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường - Uỷ ban Vật giá Nhà nước Việt Nam: Khu vực dịch vụ sẽ là động lực tăng trưởng. Ảnh: TTXVN
* TS Lê Xuân Nghĩa - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường - Uỷ ban Vật giá Nhà nước Việt Nam: Khu vực dịch vụ sẽ là động lực tăng trưởng
Hiện tại, có hai dự báo về kinh tế Việt Nam năm 2018. Một dự báo là tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể thấp hơn năm 2017 một chút do chu kỳ tăng trưởng kinh tế thế giới đang chững lại. Điều này sẽ tác động nhất định tới kinh tế Việt Nam.
Một dự báo khác là tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2018 có thể cao hơn một chút so với năm 2017 do kinh tế Việt Nam bước vào chu kỳ tăng trưởng ngắn hạn. Nhưng về dài hạn, có thể tốc độ tăng trưởng sẽ giảm.
Nền tảng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam vẫn dựa trên tăng tổng cầu, bao gồm tăng tiêu dùng, tăng đầu tư và tăng xuất khẩu. Như vậy, tăng trưởng xuất khẩu năm 2018 có thể đạt mức năm 2017 hoặc thấp hơn một chút, song vẫn cao hơn nhiều mức Chính phủ trình Quốc hội.
Về lạm phát, tương tự năm 2017, dự báo sẽ không có đột biến giá cả. Cũng có thể các điều chỉnh về giá của một số dịch vụ như y tế, giáo dục, điện sẽ là yếu tố chính tác động tới lạm phát ở Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta kiểm soát khá tốt yếu tố cung tiền, yếu tố cơ bản tác động tới lạm phát ở Việt Nam dưới 2%, nên tôi cho rằng lạm phát năm 2018 chúng ta vẫn có thể kiểm soát tốt.
Bên cạnh đó, sự phát triển của thị trường chứng khoán vẫn được dự báo là khả quan. Bởi sau APEC 2017, làn sóng đầu tư trực tiếp và gián tiếp vào Việt Nam đang có xu hướng tăng trở lại. Trong bối cảnh chúng ta giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, đầu tư nước ngoài sẽ phát huy tác dụng tích cực trong thời gian tới.
Khi Việt Nam vào WTO năm 2007, làn sóng đầu tư bắt đầu phát triển mạnh nhưng sau đó bị rơi vào khủng hoảng kinh tế vĩ mô. Lần này, cũng có một làn sóng như vậy nhưng chúng ta giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là lạm phát.
Tôi vẫn cho rằng động lực tăng trưởng kinh tế lớn nhất năm 2018 vẫn là khu vực dịch vụ, các dịch vụ du lịch, bán lẻ, tài chính vẫn là quan trọng nhất. Đồng thời, tăng trưởng của khu vực công nghiệp chế biến, chế tạo cũng sẽ góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2018.
 TS Đặng Đức Anh - Trưởng ban, Ban dự báo Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia: Ba kịch bản cho tăng trưởng 2018. Ảnh: BNEWS
* TS Đặng Đức Anh - Trưởng ban, Ban dự báo Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế xã hội Quốc gia: Ba kịch bản cho tăng trưởng 2018
Năm 2017 có thể nói là năm thành công của kinh tế Việt Nam, nhiều chỉ tiêu đạt và vượt mục tiêu Quốc hội đề ra từ đầu năm. Tổng quan lại, năm 2017 đã tạo được tiền đề cho năm 2018, chúng tôi đã có phân tích và đánh giá, trên cơ sở đó đưa ra 3 kịch bản cho nền kinh tế năm 2018.
Thứ nhất, theo kịch bản cơ sở thì tăng trưởng kinh tế 2018 đạt 6,71%; lạm phát trung bình duy trì ở mức 3,8%. Cơ sở đưa ra dự báo này dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm 2018 được các tổ chức quốc tế đánh giá tốt hơn so với năm 2017. Báo cáo gần đây của tổ chức PWC (Công ty kiểm toán toàn cầu PricewaterhouseCoopers) dự báo, tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới có thể đạt mức gần 4%, đây là mức rất cao.
Động lực đến từ các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Trung Quốc, EU vẫn duy trì ở mức tăng trưởng 6,7%; thị trường hàng hóa thế giới vẫn ổn định, mặc dù giá nguyên liệu có sự tăng nhẹ, nhưng nhìn chung đều có sự ổn định, đây là tiền đề tốt cho tăng trưởng chi phí đầu vào của nền kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh đó, thị trường tài chính tiền tệ được dự báo ổn định, giúp cho thị trường tài chính tiền tệ trong nước. Hai năm vừa qua môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp, du lịch, công nghiệp....
Với những yếu tố thuận lợi bên ngoài thì các yếu tố trong nước vẫn phát huy hiệu quả như môi trường đầu tư kinh doanh, tái cơ cấu, xử lý nợ xấu... giúp duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,7%. Đây là mức tăng hợp lý phù hợp với điều kiện hiện nay.
Thứ hai, một kịch bản khác trong bối cảnh điều kiện thuận lợi hơn, hoặc có yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến kinh tế tăng trưởng sẽ đạt mức cao hơn. Ví dụ, Chính phủ đẩy mạnh hơn quá trình cải cách kinh tế, đặc biệt là môi trường đầu tư kinh doanh như Nghị quyết 01 đề ra. Nếu đạt được các điều kiện đó, cùng với ổn định kinh tế vĩ mô thì tốc độ tăng trưởng GDP có thể đạt mức 7%.
Tuy nhiên, còn 1 kịch bản nữa không lạc quan như 2 kịch bản trên. Đó là trong trường hợp nền kinh tế chịu ảnh hưởng bất lợi bởi thiên tai, biến đổi khí hậu, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, qua đó ảnh hưởng rất lớn đến khu vực sản xuất nông nghiệp.
Đối với khu vực công nghiệp, hiện đang trong quá trình tái cơ cấu, đặc biệt ngành khai khoáng, đây là thách thức không nhỏ đối với cơ quan quản lý trong việc thúc đẩy phát triển các ngành này để bù đắp cho sự sụt giảm của ngành khai khoáng.
Lưu ý rằng, trong năm 2017 thì ngành chế biến, chế tạo có sự đóng góp lớn của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài như Samsung, Formusa. Như vậy, ở kịch bản này, tốc độ tăng trưởng GDP chỉ đạt 6,3% và lạm phát có thể trên 4%.
Nhưng nhìn chung, yếu tố thuận lợi vẫn là chủ đạo trong năm 2018. Tuy nhiên vẫn phải có yếu tố về chính sách đề phòng ngay từ đầu năm, giảm bớt yếu tố tiêu cực có thể tác động đến nền kinh tế. Theo đó, cần tập trung các giải pháp: ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh.
 Ông Toru Kinoshita, Tổng Giám đốc Công ty Ô tô Toyota Việt Nam: Triển vọng thị trường tăng trưởng mạnh mẽ. Ảnh: Văn Xuyên/BNEWS/TTXVN
* Ông Toru Kinoshita, Tổng Giám đốc Công ty Ô tô Toyota Việt Nam: Triển vọng thị trường tăng trưởng mạnh mẽ
Nhận định về tình hình kinh tế năm 2018 các chuyên gia và nhà hoạch định chính sách đã nói nhiều, tôi không có bình luận gì thêm.
Đối với ngành công nghiệp ô tô Việt Nam nói chung, về ngắn hạn, trong năm 2018, thị trường ô tô vẫn tiếp tục tăng trưởng. Tuy nhiên, do ảnh hưởng một số quy định trong Nghị định 116/2017/NĐ-CP của Chính phủ mới ban hành liên quan đến nhập khẩu, các hãng gặp khó khăn, phải tạm thời dừng nhập khẩu xe. Và vì vậy, chúng tôi dự đoán nhu cầu về xe sản xuất và lắp ráp trong nước có khả năng sẽ tăng cao.
Về dài hạn, không ai có thể đoán trước được tình hình của 5 năm tới vì còn phụ thuộc vào thị trường, chính sách và nền kinh tế, nhưng Toyota Việt Nam tin rằng trong 10-20 năm tới, nền kinh tế sẽ tăng trưởng mạnh mẽ nhờ lợi thế về dân số và chất lượng nguồn nhân lực.
Và Việt Nam sẽ là một thị trường ô tô rất lớn. Ngành công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ phát triển mạnh mẽ nếu Nhà nước có thể xây dựng được chính sách ổn định và lâu dài thúc đẩy sự phát triển của ngành.
Với tiềm năng lớn như vậy, việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp mới hay mở rộng sản xuất, quy mô của các doanh nghiệp hiện tại là điều tất yếu, góp phần vào sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Riêng với Toyota Việt Nam, năm 2018 được dự báo là một năm đầy thách thức với những thay đổi trong môi trường kinh doanh, Toyota Việt Nam đã phải tạm dừng việc nhập khẩu xe CBU và khó có thể đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng.
Chính vì lẽ đó, Toyota Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh sản xuất trong nước, nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, đồng thời hoàn thành tốt trách nhiệm của mình thông qua những đóng góp ý nghĩa cho sự phát triển của cộng đồng và xã hội Việt Nam.
 Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Nguyễn Vũ Trường Sơn: Cơ hội mở rộng sản xuất, xuất khẩu. Ảnh: Anh Nguyễn/BNEWS/TTXVN
* Tổng Giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam Nguyễn Vũ Trường Sơn: Cơ hội mở rộng sản xuất, xuất khẩu
Năm 2018 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2016-2020, là năm có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2025 và định hướng đến năm 2035.
Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) dự báo việc triển khai kế hoạch của Tập đoàn sẽ diễn ra trong bối cảnh tình hình chính trị-xã hội, kinh tế vĩ mô của Việt Nam được duy trì ổn định; những nỗ lực từ phía Chính phủ trong tháo gỡ khó khăn của doanh nghiệp, nhằm thúc đẩy tăng trưởng được thực hiện triệt để và quyết liệt trong năm 2017 sẽ phát huy hiệu quả trong năm 2018.
Bên cạnh đó, tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ được triển khai mạnh mẽ, sâu rộng và toàn diện. Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện đầy đủ các cam kết đối với Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Trung Quốc và ASEAN với các đối tác khác, WTO, FTA thế hệ mới… sẽ tạo thêm cơ hội cho PVN mở rộng sản xuất, xuất khẩu.
Tuy nhiên, các khó khăn cho việc triển khai nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của PVN trong năm 2018 cũng bộc lộ khá rõ. Giá dầu thô tiếp tục diễn biến khó lường và duy trì ở mức thấp sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của PVN. Tình hình biển Đông dự báo tiếp tục có những diễn biến khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tìm kiếm thăm dò dầu khí của PVN, cũng như ảnh hưởng tới việc kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư tìm kiếm thăm dò dầu khí ở các lô còn mở của PVN.
Ngoài ra, nguồn thu của PVN trong năm 2018 sẽ bị suy giảm do giá dầu ở mức thấp trong khi việc thu xếp tài chính cho các dự án đang triển khai gặp khó khăn do việc bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay gặp khó khăn, việc vay vốn bằng hình thức hỗ trợ Tín dụng xuất khẩu (ECA) của Nga và Mỹ cũng rất khó khăn do trừng phạt kinh tế của các nước EU và Mỹ đối với Nga./.