Kinh tế TP Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Tại Hội thảo khoa học “TPHCM - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập” do Thành ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ Việt Nam TPHCM tổ chức ngày 17/3, GS-TS Vương Đình Huệ, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế trung ương có bài tham luận đáng chú ý về “Kinh tế TPHCM - 40 năm phát triển và hội nhập quốc tế”, Báo KTĐT online xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết.   Sau bốn mươi năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đồng thời hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế kinh tế, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.

Kinhtedothi - Tại Hội thảo khoa học “TPHCM - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập” do Thành ủy - HĐND - UBND - Ủy ban MTTQ Việt Nam TPHCM tổ chức ngày 17/3, GS-TS Vương Đình Huệ, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Kinh tế trung ương có bài tham luận đáng chú ý về “Kinh tế TPHCM - 40 năm phát triển và hội nhập quốc tế”, Báo KTĐT online xin trân trọng giới thiệu toàn văn bài viết.  

Sau bốn mươi năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và ba mươi năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã chuyển đổi thành công từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đồng thời hình thành được hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ đời sống kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thể chế kinh tế, đặc biệt là hệ thống luật pháp và bộ máy quản lý ngày càng được xây dựng, hoàn thiện theo hướng tiến bộ, phù hợp. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và hiệu quả. Dân chủ trong xã hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững.

 
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ phát biểu tại hội thảo.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Vương Đình Huệ phát biểu tại hội thảo.
Trong dòng chảy lịch sử vĩ đại đó của đất nước, Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng. Chặng đường 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập của Thành phố mang tên Bác đã khơi dậy và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân và tinh thần “vì cả nước, cùng cả nước”. Với truyền thống năng động sáng tạo, bám sát thực tiễn, gắn bó máu thịt với nhân dân, vì nhân dân, dựa vào nhân dân, nhờ lòng dân và sức dân, với bản lĩnh, trí tuệ và nhạy bén nắm bắt cơ hội, đẩy lùi khó khăn, vượt qua thách thức, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; ngày càng khẳng định vai trò là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của cả nước, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị - kinh tế - xã hội quan trọng của cả nước.

Nhìn lại chặng đường 40 năm qua, Thành phố luôn được sự quan tâm chỉ đạo, ủng hộ đặc biệt của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tháng 9 năm 1982, Bộ Chính trị đã có Nghị quyết đầu tiên về phát triển Thành phố. Tiếp đó là Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 18/11/2002 và gần đây nhất là Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. Từ những định hướng chiến lược quan trọng này, cùng với sự nỗ lực vượt bậc, không ngừng, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đóng góp nhiều kinh nghiệm quý báu cho cả nước trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Về tăng trưởng kinh tế, trong 40 năm qua, Thành phố Hồ Chí Minh đã quán triệt, vận dụng, thực hiện sáng tạo đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng, bám sát thực tiễn, luôn tìm tòi, sáng tạo, mạnh dạn thể nghiệm nhiều cơ chế, chính sách mới để thúc đẩy sản xuất, mở rộng thị trường. Vượt qua những khó khăn trong 10 năm đầu sau giải phóng, Đảng bộ và Nhân dân thành phố đã giữ vững thành quả cách mạng, ổn định chính trị - xã hội, khôi phục và phát triển kinh tế. Bằng ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy sức sáng tạo của nhân dân, tạo ra tư duy mới, cách làm mới trên nhiều lĩnh vực, mô hình sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả thiết thực, thúc đẩy kinh tế - xã hội liên tục phát triển, không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.

Kinh tế thành phố luôn duy trì tăng trưởng ở mức cao trong nhiều năm liên tục. Nếu trước thời kỳ đổi mới, trong 10 năm (1976 - 1985), tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Thành phố chỉ tăng bình quân 2,7%/năm, thì trong giai đoạn 1991-2010, Thành phố là một trong rất ít địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hai con số trong suốt 20 năm. Từ năm 2011 đến nay, Thành phố cũng đạt mức tăng trưởng kinh tế xấp xỉ 10%/năm, gấp 1,6 lần mức bình quân chung của cả nước. GDP bình quân đầu người liên tục tăng nhanh, từ khoảng 700 USD giai đoạn 1995-1996, đến năm 2014 đã đạt mức 5.131 USD. Quy mô kinh tế, tiềm lực và sự đóng góp cho cả nước ngày càng lớn. Đến nay, Thành phố đã đóng góp khoảng 1/3 giá trị sản xuất công nghiệp, 1/5 kim ngạch xuất khẩu và 1/5 quy mô kinh tế của cả nước; đóng góp 30% trong tổng thu ngân sách quốc gia. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đến năm 2014, tỷ trọng dịch vụ đã chiếm 59,6% trong GDP, công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 39,4%, khu vực nông nghiệp chỉ còn 1% và đang phát triển theo hướng hình thành một nền nông nghiệp đô thị sinh thái.

Chất lượng công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển đô thị bền vững có nhiều tiến bộ rõ rệt. Quá trình phát triển Thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn gắn với quy hoạch, quản lý quy hoạch, phát triển đô thị, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ đã làm cho diện mạo đô thị Thành phố có nhiều thay đổi, phát triển vượt bậc. Thành phố đã tập trung các nguồn lực triển khai thực hiện công tác quy hoạch đô thị, quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng giao thông, hình thành các trục xuyên tâm, trục Bắc - Nam, đường vành đai, các tuyến metro và đường trên cao. Các khu đô thị mới như khu đô thị Phú Mỹ Hưng, Khu đô thị mới Thủ Thiêm, khu đô thị Tây Bắc,… được đầu tư xây dựng, phát triển hiện đại hài hòa với tổ chức không gian của thành phố, trở thành những đô thị kiểu mẫu. Việc nhận thức đúng và làm tốt công tác quy hoạch, quản lý quy hoạch đã tạo tiền đề để Thành phố phát triển đô thị, hạ tầng kinh tế - xã hội, phục vụ phát triển công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp, văn hóa - xã hội, cải thiện dân sinh, xây dựng Thành phố ngày càng văn minh, hiện đại, thành đô thị đặc biệt có sức hội tụ và lan tỏa lớn của Vùng và cả nước.

Văn hoá, xã hội, giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có bước tiến tích cực; hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học - công nghệ đã góp phần thiết thực hơn vào quá trình phát triển. Cùng với thành quả phát triển kinh tế, đời sống của Nhân dân Thành phố không ngừng được cải thiện, an sinh xã hội luôn được đảm bảo, thu nhập từng bước được nâng lên. Đảng bộ Thành phố luôn dựa vào nhân dân để phát động các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội và chăm lo cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người có công với cách mạng. Với truyền thống yêu nước, cách mạng, nhân ái và nghĩa tình, Thành phố đã phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân và chăm lo cải thiện đời sống cho nhân dân. Đến cuối năm 2014, số hộ nghèo có thu nhập từ 16 triệu đồng/người/năm trở xuống theo chuẩn nghèo của Thành phố chỉ còn khoảng 1,3%. Công tác chăm sóc sức khỏe được quan tâm. Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có nhiều tiến bộ, Thành phố là địa phương đi đầu trong cả nước về phổ cập giáo dục, đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục bậc trung học. Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt được kết quả cao. Thành phố cũng là nơi khởi xướng và thực hiện tốt các phong trào xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương, chương trình bảo trợ bệnh nhân nghèo; chăm lo cho công nhân, người lao động,... mang lại kết quả thiết thực, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện sinh động bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Một trong những thành tựu đồng thời cũng là đóng góp quan trọng, quý báu của Thành phố đối với công cuộc Đổi mới của đất nước là từ thực tiễn sinh động và sáng tạo của mình, Thành phố đã góp phần quan trọng, rất tích cực vào quá trình tìm tòi, nghiên cứu hoạch định, hình thành, phát triển đường lối đổi mới, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, nhất là về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội của Thành phố trong 40 năm qua nhất là trong 30 năm đổi mới trước hết là sự nhận thức, quán triệt, tổ chức thực hiện và góp phần bổ sung, hoàn thiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong phát triển kinh tế bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa; gắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa với quá trình đô thị hóa, giữa quá trình đô thị hóa với xây dựng nông thôn mới.

Đồng thời, những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội trong chặng đường 30 năm đổi mới của Thành phố cũng bắt nguồn từ sự nhận thức sâu sắc, nhạy bén, đổi mới tư duy của Đảng bộ và nhân dân thành phố về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; vai trò của Nhà nước và thị trường cũng như giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Chính việc thí điểm thực hiện nhiều chính sách đột phá của thành phố cho một nền kinh tế mở, các mô hình của kinh tế thị trường như phân cấp quản lý ngân sách, đầu tư,…đã tạo điều kiện thuận lợi để các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường phát huy năng lực, lợi thế, đồng thời đây cũng là một trong những cơ sở thực tiễn thuyết phục để Trung ương xây dựng các chủ trương và thể chế hóa thành các khung pháp lý quan trọng như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư áp dụng chung cho tất cả các thành phần kinh tế trong cả nước. Sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng nhiều thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh gắn liền và phản ánh quá trình đổi mới nền kinh tế của nước ta. Từ thực tiễn 30 năm đổi mới tại Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, sự tồn tại và phát triển của một cơ cấu kinh tế đa thành phần là tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sản xuất hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần và vận hành theo cơ chế thị trường là ba bộ phận không thể tách rời trong quá trình huy động các nguồn lực của đất nước vào mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự phát triển các thành phần kinh tế trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh đã thể hiện sức sống mãnh liệt của các thành phần kinh tế dân doanh. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ V (1982), với sự thừa nhận miền Nam tồn tại 5 thành phần kinh tế và đặc biệt từ sau Đại hội VI (1986), khu vực kinh tế tư nhân tại Thành phố dù tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng đều có sức sống mạnh mẽ. Có thể nói sự đa dạng hóa sở hữu và thành phần kinh tế là động lực chính yếu thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh suốt 30 năm qua. Điều đó đã minh chứng tầm nhìn trong chủ trương khuyến khích phát triển, đa dạng hóa các thành phần kinh tế, xem các thành phần kinh tế là bộ phận không thể tách rời trong cơ cấu kinh tế của nước ta, đồng thời thiết lập cơ chế và môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế là hoàn toàn đúng đắn.

Trong những năm qua, mặc dù khu vực doanh nghiệp nhà nước của Thành phố thu hẹp dần về mặt tỷ trọng nhưng không làm giảm vai trò của Nhà nước trong việc định hướng sự phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Các nguồn thu của Nhà nước đã tiếp tục gia tăng mạnh mẽ, tạo điều kiện vật chất tốt hơn cho Nhà nước thực hiện các chính sách về an sinh xã hội, làm tốt hơn vai trò của Nhà nước trong quản lý và phát triển kinh tế. Đảng bộ, chính quyền thành phố đã tập trung vào cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, phát triển các doanh nghiệp nhà nước công ích và xã hội hóa đầu tư trong lĩnh vực hạ tầng kinh tế - xã hội. Đây là chủ trương đúng đắn để củng cố và phát triển vai trò của Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, các khu vực ngoài nhà nước kể cả đầu tư nước ngoài tăng liên tục và ngày càng có tỷ trọng lớn trong cơ cấu GDP và cơ cấu lao động. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương trong cả nước có sự thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhưng trong cơ cấu kinh tế nguồn nội lực vẫn chiếm tỷ trọng chủ yếu về cơ cấu giá trị và cơ cấu lao động. Các thành phần kinh tế dân doanh khác (hộ sản xuất kinh doanh công nghiệp, thương mại, dịch vụ) vẫn đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế nhiều thành phần trên địa bàn thành phố. Đây là thành phần kinh tế hoạt động tương đối ổn định ngay cả trong thời kỳ nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Thực tiễn sinh động của thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy, để ổn định kinh tế vĩ mô không nhất thiết phải có nhiều doanh nghiệp nhà nước mà doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động thật sự có hiệu quả và Nhà nước sử dụng đồng thời nhiều công cụ để điều tiết thị trường. Đồng thời cũng cho thấy sự đa dạng hóa sở hữu và thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân chính là động lực để phát triển kinh tế - xã hội và thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ bài học này, Thành phố cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hữu hiệu để hỗ trợ các doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp nhỏ và vừa và khởi sự kinh doanh trên địa bàn Thành phố, coi đây là động lực năng động và sáng tạo quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.

Thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy để phát triển một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải hết sức coi trọng việc hoàn thiện thể chế kinh tế để phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Thành phố là địa phương tiên phong của cả nước trong việc triển khai xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp; hình thành Trung tâm giao dịch chứng khoán, phát triển hệ thống ngân hàng cổ phần, quỹ đầu tư phát triển đô thị; xây dựng các chính sách nhằm thu hút vốn đầu tư của các thành phần kinh tế để phát triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; xây dựng cơ chế thúc đẩy phát triển mạnh các loại hình thị trường hàng hóa - dịch vụ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường khoa học - công nghệ.

 
​Một g​óc TP.HCM  hôm nay (Ảnh minh họa: Internet)
​Một g​óc TP.HCM hôm nay (Ảnh minh họa: Internet)
Thành phố cũng đã bám sát thực tiễn, vận dụng sáng tạo nhằm phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước trong việc hạn chế tác động tiêu cực do những khuyết tật của thị trường, bằng việc hoàn thiện 5 nhóm công cụ quản lý: (1) Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ kinh tế; (2) Công tác kế hoạch và quy hoạch nhằm hoạch định các mục tiêu và xác lập các phương tiện để đạt các mục tiêu đề ra;(3) Các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô, đặc biệt chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ; (4) Sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để bổ khuyết thị trường (trong đó quan trọng nhất là các loại dự trữ quốc gia); (5)Cung cấp dịch vụ và hàng hóa công cộng, hành chính công; sử dụng các công cụ hỗ trợ như thông tin, xúc tiến thương mại, cung cấp các dịch vụ sản xuất.

Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ Thành phố là nhân tố hàng đầu đảm bảo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển Thành phố. Đảng bộ Thành phố đã luôn bám sát thực tế, từ thực tiễn tạo ra những giá trị mới làm cơ sở cho công cuộc đổi mới. Nhờ bám sát vào thực tiễn, Thành phố đã luôn tìm tòi, sáng tạo, tăng cường đồng thuận, phát huy cao độ vai trò làm chủ của nhân dân, mạnh dạn thể nghiệm nhiều cơ chế, chính sách mới để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất, phát triển các loại thị trường, không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, thu hút mạnh các nguồn lực để phát triển, đồng thời kiên trì thực hiện phương châm phát triển kinh tế bền vững, vì con người.

Như vậy, mô hình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong những năm qua trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh diễn ra phù hợp với định hướng và chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với sự vận động khách quan của kinh tế thị trường và đang nâng dần vị trí và vai trò của Thành phố trong quá trình hội nhập của kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, là một bộ phận của nền kinh tế cả nước và với vị trí, vai trò của mình, Thành phố Hồ Chí Minh nhận thức rằng để trở thành một đô thị văn minh, hiện đại, có vị trí xứng đáng và ngang tầm với các đô thị lớn trong khu vực thì còn rất nhiều thách thức ở phía trước. Với tinh thần “vì cả nước, cùng cả nước” và phương châm “đi trước, về đích trước”, Thành phố cần nỗ lực phấn đấu để tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, bền vững hơn; đóng góp lớn hơn vào tổng thu ngân sách và quy mô kinh tế chung của cả nước.

Trong giai đoạn tới, hai vấn đề chính đặt ra cho Thành phố Hồ Chí Minh, theo chúng tôi là: (1) Về lĩnh vực kinh tế, các doanh nghiệp, nền tảng kinh tế còn thiếu tính cạnh tranh, đang đối diện với thách thức trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới; (2) Về lĩnh vực quản lý đô thị, thách thức lớn nhất là sự bất cập giữa trình độ phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng kinh tế và yêu cầu cải thiện dân sinh. Đây là hai vấn đề mà Đảng bộ Thành phố cũng đã nhận thức rất sâu sắc qua quá trình tổng kết một số vấn đề lớn về kinh tế - xã hội của Thành phố sau 30 năm đổi mới. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thành phố cũng nên coi đây là những vấn đề phải quan tâm hàng đầu và hoàn toàn có thể đặt kỳ vọng vào những quyết sách chung của Đảng và Nhà nước trong những năm tới về đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để có thể kiến nghị, đề xuất với Thành phố những chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, cần phải có nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu rộng. Trong phạm vi Hội thảo này, chúng tôi xin gợi ý một vài vấn đề để Thành phố tham khảo, nghiên cứu:

Thứ nhất, tiếp tục quán triệt tinh thần, nội dung Nghị quyết 16-NQ/TW ngày 10/8/2012 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020; tiếp tục thể chế hóa và tổ chức thực hiện Nghị quyết bằng những đề án, kế hoạch, chương trình cụ thể.

Thứ hai, về mô hình tăng trưởng, Thành phố cần hướng tới mô hình tăng trưởng dựa trên nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh với những nội dung chủ yếu sau: (1) Phương thức thực hiện: kết hợp hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo; (2) Chiến lược tăng trưởng: chuyển tăng trưởng từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và đầu tư sang phát triển đồng thời cả về đầu tư, xuất khẩu và tiêu dùng trong nước; (3) Động lực tăng trưởng: phải dựa trên năng suất lao động, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đẩy mạnh nghiên cứu và triển khai (R&D) nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả, nâng cao giá trị gia tăng, tăng nhanh giá trị nội địa và tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu; (4) Nguồn lực tăng trưởng: dựa trên cơ sở khai thác, phát huy nguồn nội lực đồng thời thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài; (5) Mục tiêu tăng trưởng: cần hướng tới các mục tiêu dài hạn, tăng trưởng bền vững, hiệu quả và vì con người, giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, thân thiện với môi trường, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân, vì con người và cho tất cả mọi người.

Thứ ba, về tái cơ cấu các ngành kinh tế:

- Thực hiện cơ cấu lại sản xuất công nghiệp theo hướng tăng hàm lượng khoa học - công nghệ và tỉ trọng giá trị nội địa. Tiếp tục tập trung phát triển 4 ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học - công nghệ và giá trị gia tăng cao như cơ khí, điện tử - công nghệ thông tin, hóa dược - cao su, chế biến tinh lương thực, thực phẩm. Xây dựng các “cụm liên kết sản xuất”, tạo điều kiện phát triển công nghiệp hỗ trợ.

- Phát triển nông nghiệp đô thị hiện đại, hiệu quả, bền vững theo hướng nông nghiệp công nghệ cao, công nghệ sinh học, trung tâm sản xuất giống cây trồng, giống vật nuôi của khu vực, bảo vệ môi trường.

- Tập trung nâng cao tỷ trọng các ngành dịch vụ: thương mại quốc tế; tài chính, ngân hàng; dịch vụ cảng, kho bãi, hậu cần hàng hải và xuất, nhập khẩu; vận tải đa phương thức; du lịch. Phát triển Thành phố thành trung tâm dịch vụ thương mại quốc tế của cả nước và khu vực Đông Nam Á; tập trung phát triển các sản phẩm tài chính, định chế tài chính và thị trường tài chính. Liên kết xây dựng và phát triển dịch vụ du lịch đạt hiệu quả, ngang tầm khu vực Đông Nam Á. Chú trọng phát triển các ngành nghề kinh doanh văn hóa và công nghiệp văn hóa nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu người dân khi thu nhập bình quân đầu người đã đạt trên 5.000 USD.

- Tiếp tục triển khai có hiệu quả cơ cấu lại các lĩnh vực trọng tâm về đầu tư công, hệ thống tài chính - ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước.

Thứ tư, về phát triển kinh tế vùng, với vai trò đầu tàu, là cực tăng trưởng trọng yếu, Thành phố Hồ Chí Minh cần chủ động nghiên cứu, đề xuất Trung ương các cơ chế, chính sách thích hợp theo hướng đẩy mạnh phân cấp, tăng tính tự chủ cho Thành phố, nhất là về ngân sách để Thành phố thực sự trở thành đầu tàu, động lực kinh tế của khu vực và cả nước. Thành phố cũng cần chủ động phối hợp với các địa phương nghiên cứu, đề xuất các thể chế tăng cường phát triển kinh tế vùng và liên kết vùng; chú trọng phát triển giao thông thành phố theo quan điểm “thành phố mở”, gắn kết với các tỉnh trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, hỗ trợ phát triển đồng bộ. Tiếp tục phát huy tốt sự chủ động liên kết, hợp tác ngày càng có hiệu quả với các tỉnh, thành phố, đặc biệt phối hợp với các tỉnh trong xây dựng vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản sạch, an toàn.

Thứ năm, để Thành phố đóng vai trò đầu tàu trong hội nhập quốc tế, cửa ngõ chính kết nối kinh tế Việt Nam với khu vực và thế giới, Thành phố cần tăng cường áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế trong quản trị công, dịch vụ công và quản trị doanh nghiệp; đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hội nhập quốc tế.

Năm 2015, Thành phố Hồ Chí Minh tròn 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập. Với niềm tin sâu sắc vào đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; với truyền thống năng động, sáng tạo, đoàn kết, vượt khó, chủ động nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức của Thành phố mang tên Bác, chúng ta hoàn toàn tin tưởng và cùng phấn đấu xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại, nghĩa tình; phát triển nhanh và bền vững; là đầu tàu, động lực, có sức thu hút và sức lan tỏa lớn của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị - kinh tế - xã hội quan trọng của cả nước, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trở thành một trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ của khu vực Đông Nam Á, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng và nhân dân cả nước, vững bước tự hào với danh hiệu vẻ vang : Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Anh hùng.

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần