Tục cúng ông Công ông Táo ở 3 miền khác nhau như thế nào?

Lan Anh/Tiêu dùng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Cùng mang ý nghĩa chung là tiễn Táo Quân về trời để báo cáo với Ngọc Hoàng về tình hình gia chủ cả năm, nhưng phong tục 3 miền Bắc-Trung-Nam cũng có sự khác biệt thú vị.

Theo truyền thống của người Việt, hằng năm, ngày 23 tháng Chạp là ngày ông Công, ông Táo lên thiên đình để báo cáo mọi việc trong gia đình nhà chủ với Ngọc Hoàng.
Vào ngày này, mọi người thường dọn dẹp nhà, bếp sạch sẽ, làm một mâm cơm để tiễn ông Công ông Táo về trời.
 Cúng ông Công ông Táo, người miền Bắc cúng cá chép.
Ngoài những điểm tương đồng này, thì tuỳ theo phong tục vùng miền mà nghi lễ cúng ông Công, ông Táo giữa 3 miền Bắc-Trung-Nam có sự khác biệt nhất định, nhưng nhìn chung là đều thể hiện tấm lòng thành kính của gia chủ đối với vị thần cai quản việc phúc đức trong nhà.
Miền Bắc: Cúng cá chép
Người miền bắc thường cúng ông Công ông Táo khá sớm, thường từ ngày 20 đã rất nhiều nhà làm lễ, và 12 giờ trưa 23 tháng Chạp là cái mốc sau cùng. Mọi người quan niệm rằng cần cúng sớm để các Táo thần nhận lễ vật để lên chầu trời đúng hẹn. Nếu chiều hoặc tối ngày 23 mới cúng thì e rằng khi ông Táo lên đến thiên đình thì Ngọc đế đã bãi triều mất rồi. Mặt khác, nếu cúng muộn, ông Táo không chờ được để nhận lễ vì đã lên chầu từ trước.
Lễ cúng ông Công, ông Táo của người Bắc không thể thiếu cá chép, vật cưỡi của Táo quân khi lên chầu trời.Tùy quan điểm của từng gia đình mà lễ vật là cá chép sống hay cá chép giấy. Đối với cá sống, những năm gần đây hầu hết mọi người mua loại cá chép đỏ bé xinh được nuôi chuyên dùng cho việc phóng sinh và thả trong ngày 23 tháng Chạp.
Số cá chép được dâng cúng cũng khác nhau tùy từng gia đình, phổ biến nhất là 3 con cho 3 vị. Tuy nhiên, có những gia đình chỉ cúng 1 con tượng trưng, có nhà cúng 2 con cho có đôi có cặp. Sau lễ cúng, cá chép được đưa thả ở ao hồ, vừa để Táo quân có phương tiện chầu trời, vừa có ý nghĩa phóng sinh, tích đức hành thiện.
Bàn thờ Táo Quân của người miền Bắc thường bày cao hơn bàn thờ tổ tiên, trên đó gồm bộ mũ, hia. Khi đã cúng xong, họ đốt vàng mã và tiễn ba ông đầu rau trong bếp bằng cách thả xuống ao, sau đó thay ba ông đầu rau mới vào bếp và cả bộ mũ trên bàn thờ.
Theo quan niệm, ngày này là thời gian nghỉ ngơi cũng như bàn giao của Hành khiển và Táo Quân nên các gia đình nên dọn dẹp lại bàn thờ tổ tiên, đốt hết chân nhang cũ và lau chùi bát hương sạch sẽ để chuẩn bị đón năm mới.
Phong tục cúng ông Công ông Táo truyền thống đã được người miền Bắc giữ gìn bao đời nay, đây còn là dịp để các gia đình để các gia đình đoàn tụ và cùng nhau ôn lại những kỉ niệm sau một năm qua.
Miền Trung: Cúng ngựa giấy
Người miền Trung cũng cúng ông Công ông Táo nhưng phong tục lại khác so với người miền Bắc. Họ vừa thờ Táo Quân trên Trang Ông, vừa thờ trên bàn thờ bếp. Vào tối 30, mùng 1 và ngày rằm, gia chủ đều dâng hoa quả hay thắp nén nhang trên bàn thờ, còn ngày thường thì phải thắp đèn dầu trong bếp, người phụ nữ trong nhà có trách nhiệm giữ sạch sẽ và yên tĩnh nơi bếp núc.
 Không cúng áo mũ vàng mã cho các Táo như miền Bắc, người miền Trung thường dâng lên một con ngựa bằng giấy, có yên cương đầy đủ.
Thay vì cá chép, người dân nhiều nơi ở miền Trung cúng ngựa giấy như đối với những vị thần khác. Thường họ dâng một con ngựa giấy có yên cương đầy đủ, không cúng áo mũ cho các Táo như người miền Bắc.
Người miền Trung thường làm lễ tiễn Táo Quân sẽ lên thiên đình vào ngày 23 tháng Chạp rất trọng thể. Việc đầu tiên là phải thay cát mới trong lư hương và lau dọn bàn thờ ông Táo sạch sẽ. Sau khi cúng xong, tượng ba ông Táo cũ bằng đất nung được tiễn khỏi bàn thờ bếp và đặt cạnh các am miếu ở đầu xóm hay ở dưới gốc cây cổ thụ ngã ba đường. Tiếp đó, họ sẽ rước tượng ba ông Táo mới lên bàn thờ để bắt đầu một năm làm việc tiếp theo.
Người dân Huế còn có tục dựng cây nêu trước sân nhà hay sân đình trong sáng ngày 23. Lễ cúng chiều 30 Tết, họ lại rước thần về và sáng mồng 1 Tết an vị ông Táo mới. Điều đặc biệt là người Huế khi cúng lễ gì trong nhà cũng khấn vái để mời Thần Bếp về chứng giám.
Miền Nam: Cúng vào buổi tối
Do có sự giao thoa văn hóa giữa các vùng miền nên tục cúng ông Công ông Táo của người miền Nam cũng có nhiều nét tương đồng với người miền Bắc. Điểm khác biệt so với những vùng miền khác trong lễ cúng ông Công ông Táo của người miền Nam là không có tục trút lư để thay cọng nhang, không mua cá chép, không thờ áo mũ, một số nơi còn nấu thêm chè xôi hoặc nếu không thì chỉ là một mâm trái cây hết sức đơn giản.
 Lễ cúng ông Táo ở miền Nam chỉ được thực hiện vào cuối ngày, khi cả gia đình đã dùng xong bữa tối.
Người miền Nam chỉ thực hiện lễ cúng ông Công ông Táo vào ban đêm, sau bữa ăn tối của gia đình. Họ quan niệm đó là lúc công việc bếp núc đã hoàn tất, gia chủ không còn làm phiền các Táo nữa nên mới có thể tiến các Táo lên chầu trời.
Mâm cỗ cúng ông Công ông Táo cũng khá đơn giản, gồm có bình hoa tươi, đĩa kẹo làm từ mè đen và đậu phộng, nhang đèn, 3 chung nước nhỏ và đặc biệt là bộ vàng mã hình con cò và con ngựa dùng để hóa sau khi cúng với mong muốn tiễn Táo về chầu trời nhanh hơn.