Xét xử đại án tại PVN: Chính phủ không có văn bản đồng ý cho PVC làm tổng thầu

Đạt Lê - Thiên Bình
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Đưa ra quan điểm, khi tranh luận tại phiên xét xử bị cáo Trịnh Xuân Thanh cùng đồng phạm, đại diện Viện kiểm sát (VKS) khẳng định, Chính phủ không có văn bản đồng ý cho PVN chọn PVC làm tổng thầu; Có lợi ích nhóm trong vụ án…

Ngày 15/1, phiên tòa sơ thẩm xét xử Trịnh Xuân Thanh cùng 21 bị cáo trong vụ án “Cố ý làm trái…” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN) và Tổng công ty cổ phần Xây lắp Dầu khí Việt Nam (PVC) tiếp tục diễn ra. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại tòa bắt đầu đối đáp lại quan điểm của luật sư, bị cáo.
PVN chỉ định tổng thầu cho PVC: Cố ý làm trái
Đối với tội Cố ý làm trái, đại diện VKS cho biết trước đó ông Đinh La Thăng (nguyên Chủ tịch HĐTV PVN) đã khai nhận cho rằng việc PVN chỉ định PVC làm tổng thầu dự án Nhà máy Nhiệt điện (NMNĐ) Thái Bình 2 là xuất phát từ kết luận của Chính phủ về chủ trương xây dựng PVN thành tập đoàn kinh tế vững mạnh. Tuy nhiên, đại diện VKS thẳng thắn cho biết, Chính phủ không có bất cứ chỉ đạo cho PVC làm tổng thầu, hay cho PVN được chỉ định thầu. Trong công văn của Chính phủ trả lời PVN về đề xuất của PVN cho PVC làm tổng thầu, Thủ tướng lúc đó có ý kiến chỉ đạo PVN là lựa chọn nhà thầu đủ kinh nghiệm và năng lực.
Tại thời điểm 31/12/2009, nợ ngắn hạn PVC 1.982 tỷ đồng, chiếm 83% tổng vốn phải trả cho DN. Theo báo cáo tài chính năm 2010, tài sản ngắn hạn thấp hơn nợ ngắn hạn hn 3.000 tỷ đồng. sau khi bố trí cho đầu tư tài chính dài hạn khoảng 2.800 tỷ đồng, nguồn còn lại chỉ 50 tỷ đồng. PVC bị áp lực trả nợ ngắn hạn, đến năm 2011 vẫn chưa thể trả nợ gốc cho PVN nhưng vay tiếp PVN 400 tỷ đồng để đầu tư vào công ty con. Tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn hơn 558 tỷ đồng, có tới 199 tỷ đồng đầu tư dài hạn của PVC phải sử dụng vốn ngắn hạn.
 Đại diện Viện Kiểm sát tại phiên tòa.

Như vậy ngay năm 2010 PVC đã gặp khó khăn về vốn. Các dự án khi nhân chuyển nhượng từ PVFC đa số là dự án BĐS đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn, do đó PVC đã phải hỗ trợ vốn kinh doanh và trả nợ cho các đơn vị bằng nguồn vốn vay ủy thác của tập đoàn hơn 700 tỷ đồng.
Sau khi tiền tạm ứng hơn 6 triệu USD và hơn 1.300 tỷ đồng từ BQLDA Nhiệt điện Thái Bình 2 thuộc PVN về PVC đã bị các ngân hàng tự động thu nợ, điều này cho thấy PVC gặp khó khăn về tài chính trong năm 2011. Rõ ràng tình hình tài chính PVC là không lành mạnh nhưng PVN vẫn quyết định chỉ định thầu đối với PVC tại dự án NMNĐ Thái Bình 2.
PVC không đáp ứng kinh nghiệm của một nhà thầu, trong số các HĐ cung cấp không có HĐ thiết kế cho dự án, 2 HĐ liên quan đến Nhiệt điện là Vũng Áng và Nhơn Trạch 2, PVC chỉ thi công xây dựng chứ không làm HĐ thiết kế. Do đó việc đánh giá hồ sơ đáp ứng yêu cầu là không có cơ sở.
Trong hai hồ sơ xây lắp lớn nhất liên quan đến nhiệt điện trước đó chỉ có giá trị HĐ bằng 25% tổng giá trị hợp đồng tại NMNĐ Thái Bình 2. Chính bị cáo Trịnh Xuân Thanh cũng thừa nhận tại thời điểm đó PVC không có đủ năng lực kinh nghiệm… Dự án đã thi công kéo dài gấp đôi thời gian dự kiến, chi phí phát sinh tới 155 tỷ đồng/năm.
 Quang cảnh phiên tòa.

Câu hỏi đặt ra là liệu có thể đưa PVC lên làm tổng thầu theo mục tiêu ưu tiên Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam? Ngày 14/1/2011 Nguyễn Quốc Khánh ký quyết định thay đổi công nghệ của dự án. Ngày 28/2 PVC và PV Power ký HĐ 33 trong điều kiện thiếu một loạt căn cứ cần thiết. Nhiều nội dung trong HĐ không có thật. Ngày 13/5/2011, Nguyễn Quốc Khánh đã thay mặt PVN ký HĐ 4194 với PVC thực chất là chuyển đổi chủ đầu tư về PVN.
Do vậy, VKS cho rằng HĐ 33 thực chất chỉ là “phù phép” để chuyển tiền về PVC. Việc PVC thu hồi 1.240 tỷ đồng tính đến 13/9/2016 là thu hồi nội bộ tại PVC không liên quan đến số tiền PVN tạm ứng cho PVC. Trong thời hạn PVC tạm ứng tiền cho đến khi PVN có công văn thu hồi tiền tạm ứng, PVC đang chiếm dụng của PVN 1.115 tỷ đồng. Không có căn cứ nào cho rằng PVC đã thu hồi thừa tiền tạm ứng như các luật sư đã nêu…
Có dấu hiệu lợi ích nhóm
Các bị cáo thừa nhận việc tạm ứng không đúng pháp luật, việc sử dụng tiền sai mục đích là trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra từ 2011-2012, chủ đầu tư không thu hồi tiền tạm ứng do PVC chiếm dụng. Cơ sở tính thiệt hại bằng lãi tiền gửi ngân hàng theo quy định Điều 608 BLDS 2015. Trong vụ án này việc xác định thiệt hại căn cứ vào khoản 3 của Điều 608 là lợi ích gắn liền với thiệt hại.
Trong số tiền tạm ứng, đến 30/8/2011 toàn bộ số tiền này đã không còn và bị sử dụng sai mục đích 1.100 tỷ đồng. Tính đến hết năm 2011 chỉ sử dụng cho dự án 169 tỷ đồng, cả năm 2012 chỉ sử dụng khoảng 1,5 tỷ đồng cho dự án, chủ yếu là chi phí quản lý vì chưa có thiết kế kỹ thuật.
Như vậy số tiền PVC chiếm dụng không có lãi tức là 1.115 tỷ đồng, trong khi vốn tạm ứng là vốn đầu tư phát triển của PVN. Do đó không có cơ sở để tạm ứng cho PVC trong điều kiện bình thường. Việc tính lãi suất theo lãi suất tiền gửi có kỳ hạn là hoàn toàn hợp lý. VKS cho rằng có số tiền thiệt hại 119 tỷ đồng là có căn cứ và hợp lý.
Theo VKS, xét về các mối quan hệ cho thấy Vũ Đức Thuận và Đinh La Thăng có vai trò quyết định trong việc về PVC và được cất nhắc để nắm giữ vị trí chủ chốt. Bị cáo Đinh La Thăng đã bỏ qua các quy định của pháp luật để chỉ định PVC làm tổng thầu của dự án. “Qua đó cho thấy rõ mối quan hệ mang tính lợi ích nhóm tại đây”. – Đại diện VKS khẳng định.
Đối với một số quan điểm của luật sư không đồng tình với nhận định trong bản luận tội đánh giá bị cáo không thành khẩn khai báo, quanh co, đổ lỗi cho cấp dưới, đại diện VKS nhấn mạnh cần tách bạch hai vấn đề là quyền của bị cáo theo luật và phần đánh giá về thái độ, hành vi của bị cáo của cơ quan luận tội...
 
 

Tin đọc nhiều

Kinh tế đô thị cuối tuần