Rất ít công trình về đích đúng hẹn, đặc biệt là trong nhóm công trình sử dụng vốn ngân sách. Phóng viên báo Kinh tế & Đô thị đã có cuộc trao đổi với ông Trần Ngọc Hùng (ảnh trên), Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam về thực trạng cũng như những giải pháp để khắc phục tình trạng chậm tiến độ ở các dự án đầu tư xây dựng.
- Con số hơn 99% dự án chậm tiến độ được Tổng hội Xây dựng đưa ra mới đây có phản ánh đúng thực trạng của các dự án đầu tư xây dựng?
Nói một cách chuẩn xác, theo số liệu chúng tôi nhận được từ các bộ, ngành, địa phương, hầu hết các dự án thời gian đầu tư đều kéo dài và chậm tiến độ. Chậm tiến độ thường người ta chỉ tính thời gian từ khi khởi công đến khi hoàn thành, còn chúng tôi quan niệm toàn bộ dự án phải tính từ khi chuẩn bị đầu tư đến thực hiện đầu tư, đưa vào sử dụng thì hầu hết các dự án đều bị kéo dài thời gian thực hiện.
- Vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến việc chậm tiến độ trở nên phổ biến, thưa ông?
Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, khâu chuẩn bị thủ tục đầu tư, lại "vướng" rất nhiều về thủ tục hành chính, nhiều khi chồng chéo các quy định của pháp luật dẫn đến mất nhiều thời gian. Nhiều dự án có giai đoạn chuẩn bị đầu tư kéo dài 2 - 4 năm. Ngoài ra, giai đoạn này công tác thẩm định dự án, công tác quy hoạch cũng ngốn nhiều thời gian. Chúng ta chưa phủ kín được quy hoạch kinh tế - xã hội, chưa phủ kín được quy hoạch chi tiết, quy hoạch vùng xây dựng cho nên phải thỏa thuận địa điểm, quy mô dẫn đến tình trạng thời gian kéo dài.
Giai đoạn thứ hai cũng không kém quan trọng, ảnh hưởng đến tiến độ của dự án đó là giai đoạn thực hiện đầu tư. Hầu như dự án nào cũng mắc phải là công tác GPMB luôn luôn chậm. Có những dự án công tác GPMB kéo dài 5 năm, 10 năm, thậm chí Đường vành đai 1 của Hà Nội hơn 10 năm rồi chưa xong. Rất nhiều công trình từ công trình giao thông, công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp đều chậm trong GPMB. Liên quan đến câu chuyện này chính là chính sách đền bù, tái định cư. Tiếp đến là đấu thầu và thực hiện thi công. Trong đấu thầu, rất nhiều dự án bị kéo dài, nhất là với dự án sử dụng vốn nhà nước. Đặc biệt, Luật Đấu thầu quá thiên về vấn đề giá rẻ dẫn đến nhà thầu không đủ năng lực, dẫn tới thời gian bị kéo dài. Cũng phải kể đến một nguyên nhân từ việc nhiều nhà thầu thi công xây lắp đến cung cấp thiết bị có năng lực còn hạn chế. Có hàng vạn nhà thầu nhưng lực lượng còn rất hạn chế, đặc biệt thiếu đội ngũ quản lý và thợ giỏi. Nhiều công trình thủy điện báo cáo đang rất thiếu đội ngũ thợ thủy động, thợ lắp máy… Cùng với năng lực của nhân công, năng lực thiết bị cũng hạn chế thể hiện sự mất cân đối giữa đầu tư và năng lực thực hiện. Ngoài ra, do khó khăn về vốn nên hầu hết các công trình chậm tiến độ, nhất là hiện tượng đầu tư kiểu "mành mành" (đầu tư dàn trải - PV). Vấn đề này Quốc hội đã nói rất nhiều lần, đó là các công trình thi công không tập trung vốn. Đáng lẽ, nếu được tập trung vốn, công trình chỉ thi công trong 2 năm nhưng do thiếu vốn phải 3 năm, 4 năm mới xong. Dẫn đến tình trạng không có vốn cho nhà thầu, và hệ quả vẫn là dự án chậm tiến độ.
- Theo ông cần có những yếu tố nào để khắc phục tình trạng chậm tiến độ của các dự án đầu tư?
Có ba yếu tố rất quan trọng cần được giải quyết. Yếu tố thứ nhất, toàn bộ các công trình xây dựng, các dự án đều phải xuất phát từ quy hoạch. Thứ hai, Nhà nước cần sửa đổi bổ sung, thậm chí xây dựng mới hàng loạt vấn đề liên quan đến luật pháp từ đấu thầu, quy hoạch, xây dựng, doanh nghiệp… Thứ ba, chính sách, chế độ đối với ngành xây dựng để cho cán bộ, công nhân thực sự đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành.
Khi mà chúng tôi đánh giá thực trạng trình độ năng lực ngành xây dựng Việt Nam, nhìn sang các nước chúng tôi thấy một thực trạng rất đáng buồn là chúng ta chưa coi trọng đúng mức lao động của ngành xây dựng. Trời nóng nực hay giá rét người công nhân xây dựng vẫn phải làm việc ở ngoài công trường. Ở Mỹ họ xếp công nhân xây dựng vào loại 1, cao nhất. Ở ta lương công nhân xây dựng bình quân 2,7 - 3 triệu đồng/tháng. Trong khi ngành điện còn nói lương bình quân 7,3 triệu là khổ lắm rồi!
Tới đây, Tổng hội Xây dựng Việt Nam cũng sẽ kiến nghị Nhà nước không giao cho doanh nghiệp GPMB mà Nhà nước giải phóng mặt bằng sạch, đầu tư hạ tầng. Sau đó, Nhà nước tổ chức đấu thầu trên các mảnh đất đã GPMB và có hạ tầng. Giá trị chênh lệch địa tô, Nhà nước sẽ hưởng chứ không phải để các doanh nghiệp hưởng như hiện nay.
- Xin cảm ơn ông!