Tham dự Hội nghị có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường, Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền, lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và 20 tỉnh, thành phố phía Bắc.
Báo cáo của Bộ Tư pháp cho biết, Luật năm 2008 và 2004 là cơ sở pháp lý quan trọng cho hoạt động lập pháp ở nước ta. Sự ra đời của hai đạo luật này đã góp phần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương về ý nghĩa, vai trò của công tác xây dựng pháp luật, về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong hoạt động xây dựng pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động xây dựng pháp luật, góp phần đưa công tác xây dựng pháp luật ngày càng đi vào nề nếp, đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng văn bản QPPL.
Qua đó, bước đầu khắc phục được tình trạng hệ thống văn bản QPPL phức tạp, quá nhiều loại văn bản, gây khó khăn khi theo dõi, xác định thứ bậc hiệu lực của các loại văn bản. Từ đó, góp phần xây dựng hệ thống pháp luật từng bước có tính đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai và minh bạch, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, báo cáo tổng kết cũng chỉ rõ những bất cập, hạn chế như tính thống nhất của hệ thống pháp luật chưa cao; tính đồng bộ, cân đối của hệ thống pháp luật vẫn còn sự chênh lệch lớn trong các lĩnh vực khác nhau; tính ổn định của hệ thống pháp luật còn thấp; tính minh bạch còn hạn chế; tính khả thi còn nhiều bất cập và còn có sự “cắt khúc” trong xây dựng pháp luật, thiếu liên kết hữu cơ giữa việc ban hành pháp luật và thi hành pháp luật.
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, hai đạo luật đã góp phần đưa hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật đi vào nề nếp, bảo đảm tính toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, phù hợp với yêu cầu phát triển KT-XH của đất nước và từng địa phương.
Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành còn rườm rà, chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính tổng thể, bị động và lúng túng trước nhu cầu thực tiễn, là điểm nghẽn cản trở sự phát triển đất nước, đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết khắc phục.
Trên cơ sở đó, Phó Thủ tướng chỉ rõ, cần tiếp tục thể chế hoá định hướng chiến lược của Đảng về xây dựng và thực thi pháp luật. Sớm cụ thể hoá các quy định mới của Hiến pháp vừa được thông qua liên quan đến việc ban hành văn bản QPPL. Tập trung hoàn thiện thể chế gắn với nâng cao hiệu quả thi hành thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, cải cách mạnh mẽ TTHC, phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để ổn định chính trị, phát triển kinh tế, chủ động hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền con người.
Phát huy vai trò của hoạch định chính sách trong việc thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. Hiến pháp mới thông qua đã quy định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, có nhiệm vụ “đề xuất, xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền” và Thủ tướng chịu trách nhiệm “lãnh đạo việc xây dựng chính sách và tổ chức thực thi pháp luật”. Do đó, việc ban hành văn bản QPPL là công cụ pháp lý bảo đảm cho quy trình đề xuất, xây dựng, trình và thông qua chính sách trở thành khâu trung tâm của toàn bộ quy trình xây dựng pháp luật.
Phó Thủ tướng nhấn mạnh, tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý để xây dựng hệ thống pháp luật minh bạch, thi hành pháp luật nghiêm minh, công bằng, thống nhất. Cần có giải pháp kiên quyết, mạnh mẽ để mọi hành vi của cán bộ, công chức và cơ quan công quyền phải tuân thủ pháp luật. Ý thức kỷ luật, kỷ cương phải là yếu tố chi phối toàn bộ hoạt động của bộ máy Nhà nước, môi trường pháp chế phải trở thành yếu tố tự nhiên của xã hội.
Bên cạnh đó, cần chú trọng tăng cường kiện toàn, củng cố các cơ quan, đơn vị làm công tác xây dựng pháp luật theo hướng chuyên nghiệp, phát huy dân chủ, huy động sự tham gia của nhân dân vào quá trình thảo luận, phản biện chính sách. Từ đó, đúc kết để xây dựng thành cơ chế pháp lý phù hợp.
Qua 5 năm thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và 9 năm thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của HĐND và UBND năm 2004, Nhà nước đã ban hành được một số lượng lớn văn bản QPPL, điều chỉnh tương đối đầy đủ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Cụ thể, từ ngày 1/1/2009 đến 31/3/2013, số lượng văn bản QPPL do các cơ quan Nhà nước ở Trung ương ban hành là 5.206, trong đó có 62 luật và 7 nghị quyết của Quốc hội; 14 pháp lệnh và 6 nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; 222 lệnh và quyết định của Chủ tịch nước; 498 nghị định của Chính phủ; 379 quyết định của Thủ tướng… Về kết quả tự kiểm tra, xử lý văn bản, từ năm 2003 đến hết tháng 3/2013, các bộ, ngành và địa phương đã tự kiểm tra được 3.664.703 văn bản, trong đó, các bộ, ngành đã tự kiểm tra được 10.674 văn bản, các địa phương đã tự kiểm tra được 3.654.029 văn bản. Qua đó, các bộ, ngành, địa phương cũng đã phát hiện được 30.115 văn bản trái pháp luật và đã tự xử lý xong 29.191 văn bản, chiếm 97% tổng số văn bản đã phát hiện. |