KTĐT - Một mình doanh nghiệp không thể làm tốt công tác xuất khẩu lao động, điều này rất cần sự phối hợp của các cơ quan chức năng để giải quyết những khó khăn, vướng mắc.
Ngày 8/7, Đoàn giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và lãnh đạo thành phố Hà Nội đã làm việc với 10 doanh nghiệp xuất khẩu lao động trên địa bàn Hà Nội về “Việc tổ chức, thực hiện chính sách pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”.
Tại đây, nhiều vấn đề được đại diện các doanh nghiệp "phàn nàn" như sự chênh lệch về phí môi giới giữa các doanh nghiệp; việc thành lập quá nhiều chi nhánh ở các tỉnh, thành gây lộn xộn, thiệt hại cho người lao động; tình trạng bán giấy phép tràn lan; thủ tục vay vốn, ký quỹ tại các ngân hàng thương mại vẫn chưa theo chuẩn chung; giải quyết rủi ro cho người lao động và xử lý lao động bỏ trốn còn nhiều bất cập ….
Theo ông Nguyễn Xuân Vui, Giám đốc Công ty Cổ phần Dịch vụ và Thương mại Hàng không, hiện nay hầu hết các ngân hàng thương mại đều yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu lao động phải ký quỹ từ 5-10% tổng số vốn vay để bảo lãnh cho người lao động.
Ông Vui cho rằng, việc ký quỹ cao, gây khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, và gây ra nhiều nhiêu khê đối với thủ tục vay vốn của người lao động.
Một trong những vấn đề thời sự nhất được các doanh nghiệp quan tâm là từ ngày 1/7, Luật Xuất nhập cảnh của Nhật Bản có hiệu lực, các doanh nghiệp khai thác thị trường này không được phép thu tiền đặt cọc của người lao động. Nhiều doanh nghiệp đã tỏ ra lo ngại với tình hình lao động bỏ trốn.
Đại diện Công ty cổ phần hợp tác lao động nước ngoài cho biết, trước đây, khoản tiền từ 8.000 đến 12.000 USD mà doanh nghiệp thu của người lao động, chỉ hoàn trả khi họ hết hợp đồng về nước, không vi phạm hợp đồng. Khoản tiền này được xem như là “bảo bối” để doanh nghiệp tạo an toàn cho chính mình trong trường hợp lao động bỏ trốn ra ngoài làm việc.
“Bây giờ không được thu khoản đó, lấy gì để chống trốn, trong khi cứ mỗi một lao động bỏ trốn là doanh nghiệp trong nước phải chịu phạt 5.500 USD từ đối tác Nhật Bản”, lãnh đạo một doanh nghiệp nói.
Doanh nghiệp này cho biết, họ đã từng đưa sự việc bỏ trốn của một lao động ra tòa án để giải quyết nhưng tòa yêu cầu phải đưa được lao động bỏ trốn về thì mới xét xử. Tìm lao động trốn ở xứ người khác nào “mò kim đáy bể”, cuối cùng doanh nghiệp phải bó tay.
Xung quanh các vấn đề mà doanh nghiệp nêu, bà Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội, Trưởng đoàn giám sát cho rằng, một mình doanh nghiệp không thể làm tốt công tác xuất khẩu lao động, điều này rất cần sự phối hợp của các cơ quan chức năng để giải quyết những khó khăn, vướng mắc.
Không thể để tình trạng người lao động khi đăng ký đi xuất khẩu lao động thì phải thông qua các cơ quan quản lý địa phương, nhưng khi gặp rủi ro về nước lại phải tự chạy khắp nơi tìm kiếm doanh nghiệp, trong khi địa phương đứng ngoài cuộc, không có chút trách nhiệm nào, bà Mai nhấn mạnh.
Bà Mai cũng cho biết mục đích của đoàn giám sát là đánh giá việc thực hiện chính sách pháp luật về xuất khẩu lao động, gồm cả những mặt được và chưa được; xác định nguyên nhân, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và địa phương và doanh nghiệp, từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách pháp luật về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.
Vì thế, các đơn vị liên quan cần đưa ra những đề xuất, những hướng giải quyết để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, đưa ra phương án sửa đổi những điểm bất hợp lý trong các chính sách về xuất khẩu lao động hiện nay.