Trên cơ sở bảo đảm an toàn tài chính quốc gia và ổn định kinh tế vĩ mô, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương chủ động tăng vay nợ cả trong và ngoài nước-chuyển mạnh sang vay trong nước-để tập trung cho đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Theo Luật Quản lý nợ, nợ công bao gồm nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương. Báo cáo của Bộ Tài chính cho thấy, ước năm 2014 nợ công là 60,3% GDP và dự kiến vào cuối năm 2015 là khoảng 64% GDP.
Ảnh minh họa. (Nguồn: TTXVN)
|
Cần cơ cấu lại nợ
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định, nợ công của Việt Nam vẫn trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, áp lực nợ công vẫn rất đáng lo ngại. Theo chuyên gia kinh tế, tiến sỹ Vũ Đình Ánh, nợ công Việt Nam đang tăng nhanh, cả về số tuyệt đối lẫn tương đối khi so với GDP. Vấn đề lo ngại ở chỗ khi tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây thấp hơn giai đoạn trước, khoảng 5-6%/năm trong khi tỷ lệ nợ công phụ thuộc nhiều vào mức độ tăng trưởng kinh tế. Tiến sỹ Vũ Đình Ánh cũng cho rằng, quy mô nợ công quan trọng nhưng không nói lên tất cả. Quan trọng hơn cả là khả năng trả nợ. Để có khả năng trả nợ thì chúng ta phải sử dụng nợ đó một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, ngân sách Việt Nam thâm hụt trong nhiều năm. Một trong những nguyên tắc quốc tế là sử dụng khoản vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách trong hiện tại nhưng chúng ta cũng phải bố trí để ngân sách không còn thâm hụt nữa, thậm chí có thặng dư để trả cho khoản vay nợ trước đó. Tuy nhiên, thiết kế ngân sách hiện tại chưa tính tới điều này. Ngoài ra, vấn đề không kém phần quan trọng là mặc dù hầu hết các khoản nợ là vay nước ngoài với lãi suất rất thấp, thời gian ân hạn rất dài nhưng hiện chúng ta đang bắt đầu phải trả nợ. Bởi vì các khoản nợ này bắt đầu từ những năm 1993-1995 và đến nay là được 20 năm, tức là bắt đầu thời gian phải trả nợ gốc. Trước những lo ngại của người dân về tình trạng nợ công liên tục tăng trong những năm qua, Chính phủ luôn đảm bảo rằng nợ công vẫn nằm trong giới hạn cho phép và đang triển khai nhiều biện pháp, nhiều giải pháp cụ thể, quyết liệt để giữ cho nợ công không vượt qua ngưỡng an toàn. Cũng tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 8, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thay mặt Chính phủ báo cáo giải trình thêm trước Quốc hội, trước cử tri cả nước về tình hình quản lý, sử dụng nợ công, kế hoạch cơ cấu nợ đến năm 2020, và đưa ra sáu nhóm nhiệm vụ, giải pháp về nợ công Các chuyên gia kinh tế đánh giá cao các giải pháp của Chính phủ và tin rằng nợ công sẽ được giải quyết trong thời gian tới mặc dù trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn. Theo tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright, sáu nhóm giải pháp mà Thủ tướng đưa ra không chỉ hoàn toàn mang tính trung và dài hạn mà còn có cả những giải pháp ngắn hạn. Tuy nhiên việc quản lý nợ công không đơn thuần, dù đó là nội dung trọng tâm, chỉ là những giải pháp liên quan đến ngân sách, vay nợ, sử dụng và phân bổ ngân sách, đầu tư công... mà còn liên quan đến nhiều giải pháp về tiền tệ, tỷ giá, cơ cấu và ngoại thương. Ông Bùi Đức Thụ, Ủy viên thường trực Ủy ban Ngân sách của Quốc hội cũng đồng ý với ý kiến của Thủ tướng về những giải pháp chung nhưng cho rằng trên quan điểm chung, để giải quyết vấn đề nợ công đó thì Chính phủ phải thể chế hóa thành những giải pháp cụ thể. Theo các chuyên gia kinh tế, để giảm áp lực nợ công điều quan trọng là cần cơ cấu lại nợ. Bởi theo báo cáo của Bộ Tài chính, nợ dù đã được cơ cấu lại nhưng vẫn chưa thực sự bền vững, bởi các khoản vay trong nước chủ yếu là vay ngắn hạn, trong khi kỳ hạn còn lại của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ trung bình là 12,8 năm thì nợ trong nước chỉ trung bình khoảng 4,3 năm, riêng trái phiếu Chính phủ 2,6 năm, làm tăng áp lực bố trí chi trả nợ trong ngắn hạn. Tiến sỹ Vũ Đình Ánh cũng cho rằng cần phải cơ cấu lại nợ theo hướng: Cơ cấu lại chủ nợ; cơ cấu lại kỳ hạn vay; cơ cấu lại lãi suất và cơ cấu lại đồng tiền. Cụ thể hơn, ông Bùi Đức Thụ cho rằng để giảm áp lực trả nợ ngân sách hàng năm cần phải cơ cấu lại các khoản vay theo hướng vay những khoản dài hạn hơn, có lãi suất thấp hơn để đảo nợ thay cho những khoản mà chúng ta đang vay ngắn hạn và với lãi suất cao. Nếu thực hiện được điều này sẽ dẫn đến giảm được áp lực trả nợ trước mắt từng năm. Khó nhưng phải đạt Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu giảm dần nợ công đến năm 2020 của Việt Nam còn khoảng 60,2%. Đây được coi là mục tiêu khó nhưng cần phải đạt được. Theo tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn, ngoài các yếu tố khách quan, khả năng đạt được mục tiêu trên phụ thuộc rất lớn vào các nỗ lực cải cách của Chính phủ. Trong một nghiên cứu của mình, tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn đã đưa ra một số dự báo về xu hướng nợ công của Việt Nam cho đến năm 2030. Theo đó, hầu hết các kịch bản đều cho thấy từ nay đến năm 2020, nợ công của Việt Nam vẫn còn xu hướng tăng lên với mức độ tùy thuộc một phần rất lớn vào nỗ lực cắt giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ bên cạnh các điều kiện về kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát và lãi suất thực. Nợ công vào những năm gần 2020 có thể giảm xuống theo một kịch bản thách thức nhất, đó là Chính phủ phải tạo ra được tăng trưởng kinh tế rất cao từ 8-9%/năm, trong khi còn phải nỗ lực cắt giảm thâm hụt ngân sách mỗi năm từ 0,5-1,0 điểm phần trăm. Rõ ràng đây là thách thức không nhỏ để Chính phủ có thể đạt được mục tiêu của mình. Đánh giá về mục tiêu tăng trưởng, các chuyên gia kinh tế cũng chỉ ra rằng nợ công được tính theo GDP, do vậy để giải quyết nợ công cần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP để thu hẹp tỷ lệ nợ công trong GDP. Nhưng vấn đề ở chỗ để tăng được GDP thì phải tăng tỷ lệ đầu tư, điều này có thể tác động đến nợ công (nợ công có thể tăng lên). Đây là một bài toán đầy mâu thuẫn mà Chính phủ cần phải giải quyết. Tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng để giải được bài toán giữa tăng trưởng và áp lực ngân sách, Chính phủ cần cải cách, thay đổi được phương thức phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, phải thay đổi được cách thức sao cho các nguồn lực có thể đi vào các lĩnh vực sản xuất và khu vực có năng suất của nền kinh tế. Như vậy sẽ vừa kích thích tăng trưởng mà cũng không tạo áp lực với ngân sách. Trong khi đó, nhiều chuyên gia cho rằng, Chính phủ dự kiến đến năm 2015 nợ công của Việt Nam là 64% trong khi bội chi ngân sách vẫn ở mức 4%, nghĩa là chúng ta vẫn phải đi vay 4% để trả nợ, điều này sẽ tiếp tục gây áp lực đến mục tiêu nợ công. Tuy nhiên, theo tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn, tỷ lệ nợ công ở mức nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, đó không chỉ là tỷ lệ bội chi ngân sách mà còn là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát và lãi suất vay nợ. Mặc dù vậy, trong thời gian qua các chỉ số về nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia như tỷ lệ nợ công và nợ Chính phủ trên GDP, tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ từ cân đối ngân sách Nhà nước so với tổng thu ngân sách nhà nước vẫn trong giới hạn Quốc hội cho phép nhưng đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Nợ Chính phủ và nợ quốc gia quy định là 50%, nợ công không quá 65%. “Vấn đề quan trọng hơn đối với Việt Nam lúc này là cần phải làm rõ thắc mắc vì sao mọi giải pháp về nợ công đều đã có mà vẫn không được thực hiện được ? Vấn đề trước mắt của chúng ta hiện nay là cần phải xây dựng lại cơ chế khuyến khích, thiết kế lại hệ thống động lực làm việc cho mọi người, đặc biệt là những cán bộ công chức, những người làm trong khu vực công của chúng ta,” tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn cho hay.
Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định, nợ công của Việt Nam vẫn trong giới hạn cho phép theo Nghị quyết của Quốc hội. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, áp lực nợ công vẫn rất đáng lo ngại. Theo chuyên gia kinh tế, tiến sỹ Vũ Đình Ánh, nợ công Việt Nam đang tăng nhanh, cả về số tuyệt đối lẫn tương đối khi so với GDP. Vấn đề lo ngại ở chỗ khi tốc độ tăng trưởng kinh tế mấy năm gần đây thấp hơn giai đoạn trước, khoảng 5-6%/năm trong khi tỷ lệ nợ công phụ thuộc nhiều vào mức độ tăng trưởng kinh tế. Tiến sỹ Vũ Đình Ánh cũng cho rằng, quy mô nợ công quan trọng nhưng không nói lên tất cả. Quan trọng hơn cả là khả năng trả nợ. Để có khả năng trả nợ thì chúng ta phải sử dụng nợ đó một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, ngân sách Việt Nam thâm hụt trong nhiều năm. Một trong những nguyên tắc quốc tế là sử dụng khoản vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách trong hiện tại nhưng chúng ta cũng phải bố trí để ngân sách không còn thâm hụt nữa, thậm chí có thặng dư để trả cho khoản vay nợ trước đó. Tuy nhiên, thiết kế ngân sách hiện tại chưa tính tới điều này. Ngoài ra, vấn đề không kém phần quan trọng là mặc dù hầu hết các khoản nợ là vay nước ngoài với lãi suất rất thấp, thời gian ân hạn rất dài nhưng hiện chúng ta đang bắt đầu phải trả nợ. Bởi vì các khoản nợ này bắt đầu từ những năm 1993-1995 và đến nay là được 20 năm, tức là bắt đầu thời gian phải trả nợ gốc. Trước những lo ngại của người dân về tình trạng nợ công liên tục tăng trong những năm qua, Chính phủ luôn đảm bảo rằng nợ công vẫn nằm trong giới hạn cho phép và đang triển khai nhiều biện pháp, nhiều giải pháp cụ thể, quyết liệt để giữ cho nợ công không vượt qua ngưỡng an toàn. Cũng tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 8, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thay mặt Chính phủ báo cáo giải trình thêm trước Quốc hội, trước cử tri cả nước về tình hình quản lý, sử dụng nợ công, kế hoạch cơ cấu nợ đến năm 2020, và đưa ra sáu nhóm nhiệm vụ, giải pháp về nợ công Các chuyên gia kinh tế đánh giá cao các giải pháp của Chính phủ và tin rằng nợ công sẽ được giải quyết trong thời gian tới mặc dù trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn. Theo tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn, giảng viên Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright, sáu nhóm giải pháp mà Thủ tướng đưa ra không chỉ hoàn toàn mang tính trung và dài hạn mà còn có cả những giải pháp ngắn hạn. Tuy nhiên việc quản lý nợ công không đơn thuần, dù đó là nội dung trọng tâm, chỉ là những giải pháp liên quan đến ngân sách, vay nợ, sử dụng và phân bổ ngân sách, đầu tư công... mà còn liên quan đến nhiều giải pháp về tiền tệ, tỷ giá, cơ cấu và ngoại thương. Ông Bùi Đức Thụ, Ủy viên thường trực Ủy ban Ngân sách của Quốc hội cũng đồng ý với ý kiến của Thủ tướng về những giải pháp chung nhưng cho rằng trên quan điểm chung, để giải quyết vấn đề nợ công đó thì Chính phủ phải thể chế hóa thành những giải pháp cụ thể. Theo các chuyên gia kinh tế, để giảm áp lực nợ công điều quan trọng là cần cơ cấu lại nợ. Bởi theo báo cáo của Bộ Tài chính, nợ dù đã được cơ cấu lại nhưng vẫn chưa thực sự bền vững, bởi các khoản vay trong nước chủ yếu là vay ngắn hạn, trong khi kỳ hạn còn lại của các khoản vay nước ngoài của Chính phủ trung bình là 12,8 năm thì nợ trong nước chỉ trung bình khoảng 4,3 năm, riêng trái phiếu Chính phủ 2,6 năm, làm tăng áp lực bố trí chi trả nợ trong ngắn hạn. Tiến sỹ Vũ Đình Ánh cũng cho rằng cần phải cơ cấu lại nợ theo hướng: Cơ cấu lại chủ nợ; cơ cấu lại kỳ hạn vay; cơ cấu lại lãi suất và cơ cấu lại đồng tiền. Cụ thể hơn, ông Bùi Đức Thụ cho rằng để giảm áp lực trả nợ ngân sách hàng năm cần phải cơ cấu lại các khoản vay theo hướng vay những khoản dài hạn hơn, có lãi suất thấp hơn để đảo nợ thay cho những khoản mà chúng ta đang vay ngắn hạn và với lãi suất cao. Nếu thực hiện được điều này sẽ dẫn đến giảm được áp lực trả nợ trước mắt từng năm. Khó nhưng phải đạt Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu giảm dần nợ công đến năm 2020 của Việt Nam còn khoảng 60,2%. Đây được coi là mục tiêu khó nhưng cần phải đạt được. Theo tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn, ngoài các yếu tố khách quan, khả năng đạt được mục tiêu trên phụ thuộc rất lớn vào các nỗ lực cải cách của Chính phủ. Trong một nghiên cứu của mình, tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn đã đưa ra một số dự báo về xu hướng nợ công của Việt Nam cho đến năm 2030. Theo đó, hầu hết các kịch bản đều cho thấy từ nay đến năm 2020, nợ công của Việt Nam vẫn còn xu hướng tăng lên với mức độ tùy thuộc một phần rất lớn vào nỗ lực cắt giảm thâm hụt ngân sách của Chính phủ bên cạnh các điều kiện về kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế, lạm phát và lãi suất thực. Nợ công vào những năm gần 2020 có thể giảm xuống theo một kịch bản thách thức nhất, đó là Chính phủ phải tạo ra được tăng trưởng kinh tế rất cao từ 8-9%/năm, trong khi còn phải nỗ lực cắt giảm thâm hụt ngân sách mỗi năm từ 0,5-1,0 điểm phần trăm. Rõ ràng đây là thách thức không nhỏ để Chính phủ có thể đạt được mục tiêu của mình. Đánh giá về mục tiêu tăng trưởng, các chuyên gia kinh tế cũng chỉ ra rằng nợ công được tính theo GDP, do vậy để giải quyết nợ công cần đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng GDP để thu hẹp tỷ lệ nợ công trong GDP. Nhưng vấn đề ở chỗ để tăng được GDP thì phải tăng tỷ lệ đầu tư, điều này có thể tác động đến nợ công (nợ công có thể tăng lên). Đây là một bài toán đầy mâu thuẫn mà Chính phủ cần phải giải quyết. Tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn cho rằng để giải được bài toán giữa tăng trưởng và áp lực ngân sách, Chính phủ cần cải cách, thay đổi được phương thức phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, phải thay đổi được cách thức sao cho các nguồn lực có thể đi vào các lĩnh vực sản xuất và khu vực có năng suất của nền kinh tế. Như vậy sẽ vừa kích thích tăng trưởng mà cũng không tạo áp lực với ngân sách. Trong khi đó, nhiều chuyên gia cho rằng, Chính phủ dự kiến đến năm 2015 nợ công của Việt Nam là 64% trong khi bội chi ngân sách vẫn ở mức 4%, nghĩa là chúng ta vẫn phải đi vay 4% để trả nợ, điều này sẽ tiếp tục gây áp lực đến mục tiêu nợ công. Tuy nhiên, theo tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn, tỷ lệ nợ công ở mức nào còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, đó không chỉ là tỷ lệ bội chi ngân sách mà còn là tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát và lãi suất vay nợ. Mặc dù vậy, trong thời gian qua các chỉ số về nợ công, nợ Chính phủ, nợ quốc gia như tỷ lệ nợ công và nợ Chính phủ trên GDP, tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ từ cân đối ngân sách Nhà nước so với tổng thu ngân sách nhà nước vẫn trong giới hạn Quốc hội cho phép nhưng đứng trước nhiều khó khăn và thách thức. Nợ Chính phủ và nợ quốc gia quy định là 50%, nợ công không quá 65%. “Vấn đề quan trọng hơn đối với Việt Nam lúc này là cần phải làm rõ thắc mắc vì sao mọi giải pháp về nợ công đều đã có mà vẫn không được thực hiện được ? Vấn đề trước mắt của chúng ta hiện nay là cần phải xây dựng lại cơ chế khuyến khích, thiết kế lại hệ thống động lực làm việc cho mọi người, đặc biệt là những cán bộ công chức, những người làm trong khu vực công của chúng ta,” tiến sỹ Đỗ Thiên Anh Tuấn cho hay.