Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quốc hội nghe Tờ trình về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030

Khang Nhi-Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Sáng ngày 28/5, tiếp tục kỳ họp Quốc hội, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh: Vùng đồng bào DTTS&MN luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư, đạt được thành tựu to lớn, cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội (KT-XH) và đời sống của đồng bào sinh sống ở vùng DTTS&MN đã được cải thiện rõ rệt nhưng hiện nay, vẫn là vùng khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, KT-XH phát triển chậm nhất, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên là do vùng đồng bào DTTS&MN xuất phát điểm thấp, địa hình chia cắt, khí hậu khắc nghiệt; chính sách còn một số hạn chế bất cập.
 Các đại biểu Quốc hội nghe Tờ trình về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 sáng ngày 28/5.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia (MTQG) nhằm khắc phục hạn chế, bất cập trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã được chỉ ra trong Báo cáo số 426/BC-CP của Chính phủ; là giải pháp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết số 88/2019/QH14 của Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể Phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021-2030.
Đối tượng điều chỉnh của Chương trình: Thôn, bản, buôn, làng, ấp... (gọi chung là thôn), xã vùng đồng bào DTTS&MN; Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc thiểu số. Hộ gia đình, cá nhân người dân tộc Kinh thuộc diện hộ nghèo, cận nghèo sinh sống ở xã, thôn đặc biệt khó khan. Doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế, xã hội hoạt động ở địa bàn vùng đặc biệt khó khăn.
Địa bàn thực hiện Chương trình: Thực hiện ở địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi là các xã, thôn có tỷ lệ hộ DTTS từ 15% trở lên. Phân định theo trình độ phát triển, bao gồm địa bàn đặc biệt khó khăn (xã khu vực III, thôn đặc biệt khó khăn), địa bàn còn khó khăn (xã khu vực II), địa bàn bước đầu phát triển (xã khu vực I). Thời gian thực hiện Chương trình: 10 năm (2021 - 2030), chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1: 2021 - 2025; Giai đoạn 2: 2026 - 2030.
Mục tiêu của Chương trình
Mục tiêu tổng quát: Giảm nghèo nhanh, bền vững; thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập của người dân vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi so với bình quân chung của cả nước; đảm bảo an sinh xã hội; bảo vệ an ninh tổ quốc; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc.
Mục tiêu cụ thể đến 2025: Chương trình sẽ đóng góp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu được xác định trong Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội. Phấn đấu đạt được các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Giảm tỷ lệ hộ nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi hàng năm trên 3%; phát triển bền vững sinh kế, tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên hơn 2 lần so với năm 2020; phấn đấu giảm trên 60% số xã, thôn đặc biệt khó khăn so với tiêu chí năm 2020.
Định hướng mục tiêu đến năm 2030: Nỗ lực cao nhất, phấn đấu đạt được các mục tiêu đã xác định trong Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18 tháng 11 năm 2019 của Quốc hội: Tăng thu nhập bình quân của người dân tộc thiểu số lên tối thiểu bằng 1/2 bình quân chung của cả nước; giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%; cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn.
Các dự án thành phần của Chương trình:
Chương trình gồm 10 Dự án thành phần (nội dung cụ thể của từng Dự án, Tiểu dự án đã được trình bày chi tiết trong Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư) gồm:
Dự án 1: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt của hộ dân tộc thiểu số.
 Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Dự án 2: Quy hoạch sắp xếp, bố trí, ổn định dân cư ở những nơi cần thiết.
Dự án 3: Phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị.
Dự án 4: Đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, phục vụ sản xuất, đời sống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi và các đơn vị sự nghiệp công lập của lĩnh vực dân tộc.
Dự án 5: Phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Dự án 6: Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch.
Dự án 7: Chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao thể trạng, tầm vóc người dân tộc thiểu số; phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em.
Dự án 8: Thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em.
Dự án 9: Đầu tư phát triển nhóm dân tộc rất ít người và nhóm dân tộc còn nhiều khó khăn.
Dự án 10: Truyền thông, tuyên truyền, vận động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kiểm tra, giám sát đánh giá việc tổ chức thực hiện Chương trình.
Về giải pháp và cơ chế quản lý, điều hành Chương trình
- Phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù.
- Áp dụng một số cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án của Chương trình.
- Đa dạng hóa nguồn vốn trong đó vốn nhà nước là quan trọng và có ý nghĩa quyết định, tạo điều kiện thuận lợi để huy động vốn ODA và đẩy mạnh thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách, khuyến khích sự tham gia, đóng góp của người dân để thực hiện các mục tiêu của Chương trình theo nguyên tắc “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”.
- Công khai, dân chủ, phát huy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số; quán triệt phương châm: “Dân cần, dân bàn, dân làm, dân hưởng lợi”, “Xã, thôn có công trình, dân có việc làm, tăng thu nhập”.
- Đẩy mạnh phân cấp, trao quyền và nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương; lồng ghép, thực hiện bình đẳng giới trong triển khai thực hiện Chương trình.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát ở các cấp; Huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để theo dõi, giám sát, đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Chương trình.
Về cơ chế quản lý, điều hành:
- Thủ tướng Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình, do một đồng chí Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban; Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc làm Phó Trưởng ban thường trực; lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính làm Phó Trưởng ban; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành có liên quan là thành viên; Ủy ban Dân tộc là cơ quan chủ trì quản lý Chương trình.
- Thủ tướng Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của Ban Chỉ đạo Chương trình ở trung ương và hướng dẫn các địa phương xây dựng chức năng, nhiệm vụ của Ban chỉ đạo cấp địa phương phù hợp với tình hình thực tế, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn và phát huy vai trò, chức năng của cơ quan công tác dân tộc các cấp trong tổ chức thực hiện Chương trình.
- Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình ở trung ương quyết định thành lập Văn phòng Điều phối quốc gia đặt tại Ủy ban Dân tộc để tham mưu cho Ban Chỉ đạo, đảm bảo nguyên tắc tinh gọn, hiệu quả và không giao tăng thêm biên chế.
Nguyên tắc phân bổ ngân sách trung ương thực hiện Chương trình
Kinh phí của Chương trình được tổng hợp thành mục ngân sách trong vốn đầu tư công ở các cấp ngân sách theo Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công do Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định. Đề nghị Quốc hội giao Chính phủ quy định định mức, phân bổ cụ thể ngân sách trung ương, đảm bảo nguyên tắc đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên đầu tư cho địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù. Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định phân bổ đến từng dự án thành phần để làm căn cứ chỉ đạo, điều hành cụ thể. Các địa phương bố trí vốn ngân sách địa phương và chủ động, tích cực huy động hợp lý nguồn vốn ngoài ngân sách theo quy định của pháp luật để thực hiện các mục tiêu của Chương trình.
Tổ chức thực hiện Chương trình
- Đối với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
+ Chỉ đạo Ủy ban Dân tộc chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng Báo cáo nghiên cứu khả thi, trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết định đầu tư theo quy định của pháp luật.
+ Chỉ đạo các địa phương cân đối, huy động và sử dụng nguồn lực bảo đảm hiệu quả, tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí.
+ Hàng năm, Chính phủ báo cáo kết quả thực hiện Chương trình với Quốc hội; năm 2025 tổng kết giai đoạn 2021 - 2025 và trình Quốc hội thực hiện Chương trình giai đoạn 2026 - 2030.
- Đối với Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
+ Xây dựng kế hoạch, bố trí ngân sách địa phương, cùng với ngân sách trung ương và chủ động, tích cực huy động tối đa các nguồn lực khác theo quy định của pháp luật để thực hiện Chương trình.
+ Hàng năm, vào kỳ họp cuối năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh báo cáo Hội đồng nhân dân cùng cấp về kết quả thực hiện chương trình.
- Về giám sát việc thực hiện Chương trình
Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo chức năng, nhiệm vụ, giám sát việc thực hiện Chương trình theo nội dung Nghị quyết này và các văn bản pháp luật có liên quan.
Một số kiến nghị của Quốc hội:
Chính phủ kiến nghị với Quốc hội Khóa XIV, Kỳ họp thứ 9 một số nội dung sau:
- Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS&MN giai đoạn 2021 - 2030 theo Tờ trình của Chính phủ.
- Về kinh phí thực hiện Chương trình: Để đạt được các mục tiêu đã xác định trong Nghị quyết 88/2019/QH14 cần một lượng ngân sách khá lớn, trong bối cảnh hiện nay chưa thể cân đối được đủ ngay, do vậy Chính phủ đề nghị Quốc hội: Phê duyệt tổng kinh phí ở mức tối thiểu cho Chương trình như trong Tờ trình của Chính phủ; giao Chính phủ hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế, tiếp tục cân đối ngân sách trung ương đề bổ sung cho Chương trình và có giải pháp huy động vốn ODA và các nguồn vốn hợp pháp khác ngoài ngân sách để thực hiện Chương trình. Quốc hội cho phép mở rộng biên độ huy động vốn ODA, vốn vay tín dụng ưu đãi, vốn viện trợ từ các đối tác phát triển, các nhà tài trợ quốc tế để thực hiện các mục tiêu của Chương trình.
Về áp dụng các cơ chế, chính sách đặc thù
Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Đỗ Văn Chiến nhấn mạnh: Do Chương trình thực hiện ở vùng đặc biệt khó khăn, quy mô các công trình nhỏ, vốn đầu tư cho một công trình không lớn, Chính phủ đề nghị Quốc hội giao Chính phủ ban hành một số cơ chế, chính sách đặc thù: Cơ chế đặc thù về thẩm định nguồn vốn: Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ thông báo vốn của cơ quan có thẩm quyền ở trung ương để tổ chức thẩm định nguồn vốn và quyết định chủ trương đầu tư của toàn bộ danh mục dự án của Chương trình. Cơ chế đặc thù, rút gọn đối với việc lập, thẩm định, phê duyệt hồ sơ và lựa chọn nhà thầu đối với các danh mục dự án quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp. Cơ chế phối hợp giữa chính quyền với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở trong việc giám sát thực hiện Chương trình.
Với Tờ trình Đề xuất chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, phê duyệt./.