Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Quy hoạch Thoát nước Hà Nội đến năm 2030: Ưu tiên chống úng ngập tại các đô thị

Chia sẻ Zalo

KTĐT - Ngày 19/12, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Văn Khôi cùng các sở, ngành đã nghe Sở Xây dựng báo cáo về Quy hoạch Thoát nước (QHTN) Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Tập trung thoát nước đô thị
 

Ông Nguyễn Thanh Hải, Phó Giám đốc Công ty CP Nước và Môi trường Việt Nam (tư vấn lập quy hoạch) cho biết, hệ thống thoát nước của Hà Nội là thoát nước chung (cho cả nước thải và nước mưa) nhưng còn nhiều hạn chế về quy mô, chất lượng. QHTN đến năm 2030 dự báo sẽ đáp ứng nhu cầu dân số của khoảng 10,8 triệu người trên tổng diện tích khoảng 334.470ha, trong đó dân số đô thị chiếm khoảng 70 - 80%.

Trong khu vực QHTN, TP sẽ tập trung vào các dự án nhằm tăng công suất tiêu nước như: xây dựng mở rộng trạm bơm Yên Sở; cải tạo và xây dựng tuyến kênh hạ lưu sông Tô Lịch hiện trạng nối từ hạ lưu sông Kim Ngưu và tuyến kênh dẫn đến trạm bơm Đông Mỹ qua cửa xả Văn Điển và Đồng Trì; đầu tư nâng công suất các trạm bơm Đông Mỹ, Nam Thăng Long, Cổ Nhuế, Đồng Bông, Liên Mạc… đồng thời cải tạo hàng loạt cụm công trình đầu mối khác.

QHTN cũng đề xuất giải pháp quy hoạch hệ thống thu gom và xử lý nước thải. Cụ thể, tại khu vực đô thị trung tâm, vùng đô thị lõi (thuộc lưu vực sông Tô Lịch) về cơ bản vẫn giữ nguyên như đã điều chỉnh quy hoạch từ năm 2010, đồng thời tập trung xây dựng Trạm xử lý hồ Bảy Mẫu công suất 13.300m3/ngày và Trạm xử lý Công viên Yên Sở công suất 200.000m3/ngày. Khu vực đô thị từ Vành đai 2 đến sông Nhuệ và một phần đô thị lõi (thuộc lưu vực Tô Lịch và Tả Nhuệ) tập trung thực hiện các dự án Trạm xử lý Yên Xá, Trạm xử lý Phú Đô. Khu vực Phú Thượng xây dựng Trạm xử lý Phú Thượng (10.000m3/ngày). Khu vực từ sông Nhuệ đến Vành đai 4 đầu tư Trạm xử lý Tân Hội (41.600 - 62.700m3/ngày), Trạm xử lý Đức Thượng (29.000 - 46.000m3/ngày)…

Vẫn còn nhiều vấn đề phải làm rõ

Theo ông Lê Văn Dục, Phó Giám đốc Sở Xây dựng, thì dự thảo QHTN chưa nói rõ được việc thoát nước mưa cho khu vực nông thôn cũng như chưa cập nhật được hệ thống thủy lợi phục vụ thoát nước đô thị và ngược lại. Đại diện chi cục thủy lợi lại cho rằng, tại hai bên các tuyến QL6, 32 và Đại lộ Thăng Long, việc thoát nước chủ yếu dựa vào hệ thống thủy lợi, nên trong quy hoạch cũng phải xây dựng rõ phương án thoát nước cho khu vực này. Ông Vũ Văn Hậu, Giám đốc Sở TN&MT lại có băn khoăn về việc xử lý nước thải, bởi nếu đặt các trạm xử lý nước thải ở cuối nguồn thì người dân trong đô thị vẫn phải chịu đựng ô nhiễm, do đó nên tách hệ thống thoát nước mưa riêng và thoát nước thải riêng để dễ xử lý nước thải.

Phó Chủ tịch Nguyễn Văn Khôi cho rằng, nội dung QHTN cần phải bám sát và thể hiện được việc thoát nước cho 10 quận và 2 huyện Từ Liêm và Thanh Trì. Bên cạnh đó cũng phải tính toán phương án thoát nước cho 5 đô thị  vệ tinh (theo Quy hoạch chung Thủ đô) cũng như các khu vực ven đô có ảnh hưởng trực tiếp đến đường thoát nước chung của các khu vực đô thị. Trong đó phải làm rõ việc ưu tiên chống úng ngập khi có mưa to tại các đô thị. Đối với xử lý nước thải, Phó Chủ tịch yêu cầu đơn vị lập quy hoạch cần làm rõ thêm việc xây dựng hệ thống thoát nước mưa đồng bộ với hệ thống thoát nước thải nhất là phải tính tới đồng bộ với hệ thống thu gom xử lý nước thải bệnh viện, công nghiệp. Đặc biệt, phải tính tới phương án đặt vị trí các trạm xử lý nước thải đầu nguồn hay cuối nguồn… tại các khu đô thị có nên tách riêng hệ thống thoát nước mưa ra khỏi hệ thống thoát nước thải từ đó xử lý nước thải hay không.

Ngoài ra, dự thảo QHTN cần bổ sung thêm như chỉ tính đến thoát nước năm 2030 mà thiếu tầm nhìn đến năm 2050; chưa hoạch định rõ phân kỳ đầu tư theo giai đoạn; nguồn vốn để triển khai các dự án thoát nước và xử lý nước thải; diện tích thoát nước từng lưu vực cũng như hướng thoát nước. Trong thời gian tới, Sở Xây dựng cùng làm việc với Sở NN&PTNT để khớp nối đồng bộ quy hoạch thoát nước và quy hoạch hệ thống thủy lợi của TP trước khi trình Thường trực UBND TP xem xét.

QHTN Hà Nội đến năm 2030 sẽ tập trung vào các lưu vực sông Tô Lịch (diện tích 7.750ha); lưu vực Đông Mỹ (2.037ha); lưu vực Tả Nhuệ (5.750ha); lưu vực Hữu Nhuệ (khoảng 21.000ha); lưu vực Phú Xuyên (4.728ha); lưu vực Long Biên - Gia Lâm (6.911ha); lưu vực Mê Linh - Đông Anh (18.298ha); lưu vực đô thị Đông Anh (15.054ha).; lưu vực Sơn Tây (6.404ha); lưu vực Hòa Lạc (13.560ha); lưu vực Xuân Mai (5.958ha); lưu vực Quốc Oai (1.685ha).