Tuy nhiên, với một kho tàng di sản đồ sộ, nhiều giá trị, gắn với lịch sử văn hóa mấy nghìn năm đang còn thất lạc ở nhiều nơi, thì để bảo quản lưu giữ được cổ vật cần những giải pháp về cơ chế, quy định trong luật, chứ không phải là các giải pháp trước mắt như hiện nay.
Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) - “cây gậy” pháp lý quan trọng
Luật Di sản văn hóa được Quốc hội khóa X thông qua tại kỳ họp thứ 9, ngày 29/6/2001.Tiếp đó, Luật được sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XII (ngày 18/6/2009), tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo đảm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, sau hơn 20 năm Luật Di sản văn hóa được ban hành và hơn 10 năm được sửa đổi, bổ sung, bên cạnh những kết quả đạt được, một số quy định trong Luật đã bộc lộ hạn chế, bất cập.
Cùng với đó, một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn cần được bổ sung mới; hệ thống pháp luật đã sửa đổi, bổ sung nhiều đạo luật mới đòi hỏi Luật Di sản văn hóa phải có sửa đổi phù hợp để bảo đảm tính thống nhất…
Một trong những trọng tâm bàn thảo đề nghị sửa đổi của Luật Di sản văn hóa là quyền sở hữu và hợp tác công tư. PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội cho biết, sự ách tắc trong việc cổ vật hồi hương là hành lang pháp lý còn chưa chặt chẽ.
Tại Hội thảo văn hóa 2022 của Quốc hội về thể chế, chính sách và nguồn lực cho phát triển văn hóa, rất nhiều chuyên gia đã phát hiện nhiều điểm nghẽn liên quan đến luật pháp về văn hóa và đang cản trở sự phát triển của lĩnh vực này.
Đó cũng là lý do chúng ta đang phải sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa. Nếu chưa có hành lang pháp lý phù hợp, chắc chắn không ai dám hồi hương cổ vật bằng con đường tiểu ngạch. Vì trong bối cảnh hiện nay nhiều người sợ làm sai, nên thà “làm đúng” còn hơn là “làm tốt”.
Tuy nhiên, ngoài đưa ra các quy định cụ thể hơn trong Luật Di sản văn hóa trong vấn đề sở hữu thì vấn đề hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa cũng cần phải được tháo gỡ.
“Di sản luôn thuộc về quốc gia, dân tộc nhưng quản lý khai thác phát huy như thế nào cho hiệu quả thì cần có cơ chế linh hoạt và phù hợp, trong đó hợp tác công tư là một hướng đi thích hợp trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh xã hội hóa một cách toàn diện để huy động sức mạnh của mọi tầng lớp Nhân dân, huy động triệt để các nguồn lực” - PGS. TS Bùi Hoài Sơn cho biết.
Với những nội dung cho ý kiến về Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo nghiên cứu tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Luật. Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục tiếp tục hoàn thiện báo cáo thẩm tra, tổ chức phiên họp toàn thể thẩm tra chính thức, trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV (dự kiến diễn ra cuối tháng 5/2024).
Từ hoạt động thực tế, có thể thấy, cần khẩn trương nghiên cứu để thay đổi, bổ sung các quy định này vào Luật Di sản văn hóa hay các văn bản dưới luật. Đã đến lúc phải nghiên cứu, ban hành các chính sách phù hợp để các địa phương, bảo tàng có cơ sở mua lại các hiện vật này đưa về nước.
Nghiên cứu, xây dựng các văn bản pháp lý theo hướng cho phép tổ chức và cá nhân trong nước được tham gia đấu giá cổ vật ở nước ngoài hoặc thành lập thị trường đấu giá cổ vật chuyên nghiệp ở Việt Nam. Tạo hành lang pháp lý thông thoáng để khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đưa cổ vật về nước.
Trong thực tế, thủ tục, quy định mà một bảo tàng công lập phải tuân thủ khi mua cổ vật phải trải qua rất nhiều khâu, công đoạn như: thành lập hội đồng xét duyệt, thẩm định giá trị, niên đại, lai lịch của hiện vật, đàm phán về mức giá… tạo nên sự chậm trễ, khó khăn trong quá trình sưu tầm, đấu giá để đưa các cổ vật về nước.
Chuẩn bị nguồn lực tài chính
Cứ nhìn từ câu chuyện đầu tư nguồn lực cho việc mua bán cổ vật trên các sàn đấu giá nước ngoài có thể thấy không nguồn ngân sách nào có thể bảo trợ toàn bộ. Vì chưa có luật tài trợ và hiến tặng hay nhiều luật khác nữa cũng vô hình trung tạo ra những cản trở đối với sự phát triển văn hóa.
Chính vì vậy, Bộ VHTT&DL cần phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng các cơ chế, chính sách về việc đấu giá cổ vật Việt Nam ở nước ngoài, bố trí nguồn kinh phí phù hợp để mua cổ vật Việt Nam đang ở nước ngoài. Hiện nay, nguồn kinh phí hỗ trợ cho việc hồi hương cổ vật chưa được chú trọng quan tâm, vì vậy cần phải ưu tiên bố trí nguồn kinh phí để nhập khẩu cổ vật, miễn toàn bộ thuế nhập khẩu cổ vật (áp dụng thuế xuất nhập khẩu 0% và đơn giản thủ tục nhập khẩu với tất cả cổ vật có giá trị văn hóa, khoa học, lịch sử, mỹ thuật…).
Đối với các tổ chức, cá nhân tham gia mua, đấu giá cổ vật nước ngoài về trao tặng lại đất nước thì ưu tiên hỗ trợ về thuế phù hợp với nguồn kinh phí đã bỏ ra, có thể là hỗ trợ đất đai hoặc các chính sách ưu đãi khác phù hợp với các quy định của pháp luật để các nhà đầu tư tham gia vào việc đấu giá cổ vật.
Bên cạnh đó, Bộ VHTT&DL phối hợp Bộ Ngoại giao, Đại sứ quán Việt Nam tại các nước sở tại kết nối trong việc sưu tầm các cổ vật Việt Nam ở nước ngoài.
Để triển khai công việc này, Bộ VHTT&DL cần nghiên cứu, thành lập Tổ công tác gồm những nhà sử học, nhà nghiên cứu, sưu tầm cổ vật, các chuyên gia bảo tàng để tiến hành rà soát những nơi còn lưu giữ các cổ vật Việt Nam để lập danh sách, xây dựng kế hoạch và có hướng sưu tầm, hồi hương các cổ vật theo từng giai đoạn phù hợp.
Ban hành các chính sách khen thưởng nhằm kịp thời động viên các tổ chức, cá nhân trong việc đưa cổ vật về Việt Nam. Bên cạnh chính sách khen thưởng thông thường, cần nghiên cứu chính sách khen thưởng bằng vật chất với mức khen thưởng hợp lý để động viên các cá nhân, tổ chức.
Bên cạnh đó, khi chúng ta chưa tham gia vào các Công ước của UNESCO như Công ước UNIDROIT năm 1995 về “Trả lại các di sản văn hóa vật thể bị đánh cắp hoặc buôn bán trái phép ra nước ngoài” thì cũng gây ra những khó khăn cho chúng ta khi tham gia hồi hương cổ vật bằng luật pháp quốc tế.
Đây là những vấn đề cần nhanh chóng giải quyết để tránh tình trạng bị động như việc hồi hương ấn “Hoàng đế chi bảo” vừa qua, và tạo điều kiện hồi hương nhiều hơn nữa các cổ vật Việt Nam hiện đang có rất nhiều ở nước ngoài.
Cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng, để công cuộc hồi hương cổ vật trở về với Tổ quốc được nhanh nhất, thuận lợi nhất, bên cạnh hoàn thiện hệ thống hành lang pháp lý, tích cực đàm phán thông qua con đường ngoại giao, chúng ta cần sẵn sàng một nguồn lực đủ lớn, đủ mạnh để tham gia đấu giá nếu đã xác định cổ vật đó có nguồn gốc từ Việt Nam. Nắm bắt thông tin nhanh nhạy và tham gia đấu giá là con đường ngắn nhất để đưa cổ vật Việt Nam hồi hương.
Tuy nhiên, không chỉ liên quan đến vấn đề pháp lý, những nguyên nhân quan trọng khác như nhận thức về tầm quan trọng của cổ vật, đặc biệt là các cổ vật Việt Nam đang ở nước ngoài, những chính sách cụ thể, nguồn lực để bảo vệ và phát huy giá trị di sản (từ con người, tài chính, cơ sở vật chất) cũng ảnh hưởng rất nhiều đến việc hồi hương cổ vật của chúng ta.
PGS.TS Bùi Hoài Sơn - Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa - Giáo dục của Quốc hội