Cởi gỡ để Việt Nam hưởng lợi ích  kép từ điện gió ngoài khơi

Khắc Kiên
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Việc phát triển điện gió ngoài khơi được Việt Nam xác định là giải pháp đột phá trong chuyển dịch năng lượng, đảm bảo an ninh năng lượng. Song, đây là lĩnh vực mới ở Việt Nam nên vẫn còn nhiều việc đáng bàn để hưởng lợi ích kép.

Đó là chia sẻ của các nhà quản lý, chuyên gia trong hội thảo “Thúc đẩy phát triển ngành điện gió ngoài khơi của Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và các gợi ý chính sách” do Ban Kinh tế Trung ương (CEC), Đại sứ quán Đan Mạch tại Việt Nam tổ chức ngày 16/3 tại Hà Nội.

Điện gió ngoài khơi sẽ đảm bảo an ninh năng lượng. Ảnh: Hoàng Anh
Điện gió ngoài khơi sẽ đảm bảo an ninh năng lượng. Ảnh: Hoàng Anh

Tiềm năng cần khai thác

Trong những thập kỷ gần đây, Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm khoảng 7%, dẫn đến sự gia tăng đáng kể về lượng năng lượng tiêu thụ cũng như lượng khí thải CO2 liên quan. 

Đến cuối năm 2021, tổng công suất đăng ký đầu tư điện gió ngoài khơi tại Việt Nam khoảng 154GW. Dự thảo Quy hoạch Điện VIII (PDP 8) đặt ra mục tiêu sẽ phát triển khoảng 16.121MW điện gió trên bờ, gần bờ và khoảng 7.000MW điện gió ngoài khơi vào năm 2030; đến năm 2045 công suất đặt điện gió ngoài khơi dự kiến đạt khoảng 64.500MW.

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển chia sẻ tại sự kiện. Ảnh: Khắc Kiên
Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển chia sẻ tại sự kiện. Ảnh: Khắc Kiên

Theo Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Đức Hiển, Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng và cơ hội để phát triển năng lượng gió. Hơn 39% lãnh thổ của Việt Nam có tốc độ gió lớn hơn 6m/s tại độ cao 65m. Đặc biệt, khoảng 8% diện tích lãnh thổ, tương đương 112GW được đánh giá là có tiềm năng năng lượng gió tốt.

Bên cạnh đó, cùng với năng lực, kinh nghiệm xây dựng công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành dầu khí, Việt Nam có thể phát huy tốt nội lực để phát triển ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi gắn với chuỗi giá trị công nghiệp hỗ trợ, dịch vụ logistic trong những năm tới. 

Song, ông Nguyễn Đức Hiển cũng chỉ ra những bài toán lớn mà ngành điện gió ngoài khơi tại Việt Nam phải đối mặt như tính chất phức tạp về kỹ thuật và công nghệ; nguồn vốn lớn và dài hạn. Đồng thời, nhiều vấn đề cần phải làm rõ như: Quy hoạch, cơ chế, chính sách đầu tư xây dựng, quy định cho thuê, cấp phép, quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy định vận hành, cơ chế giá điện và hợp đồng mua bán điện; các quy định về vận hành hệ thống điện, hệ thống cảng biển, phát triển chuỗi cung ứng…

Từ triển khai Nghị quyết 55-NQ/TW năm 2020 về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cho thấy, việc thể chế hóa và cụ thể hóa yêu cầu xây dựng các cơ chế, chính sách hỗ trợ và đột phá cho phát triển điện gió ngoài khơi tại các cấp có thẩm quyền triển khai còn chậm, kết quả còn hạn chế.

Đơn cử, PDP 8 và quy hoạch không gian biển vẫn đang trong quá trình xây dựng và chưa được ban hành; việc giao vùng biển để thực hiện khảo sát, phục vụ phát triển điện gió ngoài khơi chưa được quy định cụ thể; các quy định về hình thức lựa chọn nhà đầu tư hiện chưa điều chỉnh; lộ trình xây dựng và ban hành cơ chế chính sách giá cho dự án điện gió ngoài khơi cho đến nay chuẩn bị còn rất chậm, thiếu các chỉ dẫn cụ thể và rõ ràng; việc xây dựng khung giá cho điện gió ngoài khơi cũng đang gặp khó khăn và bất cập; còn thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn cho điện gió ngoài khơi…

Nhiều khuyến nghị để phát triển

Đan Mạch là quốc gia phát triển mạnh về năng lượng tái tạo nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng. Theo Đại sứ Đan Mạch Nicolai Prytz, điện gió ngoài khơi là cơ hội kép cho Việt Nam. Đây là nguồn năng lượng xanh và có chi phí hiệu quả với sự phát triển kinh tế, đồng thời hỗ trợ Việt Nam đạt được cam kết tại Hội nghị COP26 đối với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Đại sứ Đan Mạch Nicolai Prytz. Ảnh: Khắc Kiên
Đại sứ Đan Mạch Nicolai Prytz. Ảnh: Khắc Kiên

“Đan Mạch mong đợi Chính phủ Việt Nam sớm ban hành khung pháp lý rõ ràng và nhất quán. Điều cần thiết cho sự phát triển nên bắt đầu bằng việc phê duyệt PDP 8 và quyền khảo sát ngoài khơi độc quyền” – vị này nhấn mạnh.

Một trong những khuyến nghị chính trong Báo cáo “Lộ trình phát triển điện gió ngoài khơi tại Việt Nam” của Cục Năng lượng Đan Mạch và Ngân hàng Thế giới là Chính phủ Việt Nam nên cho phép triển khai một vài dự án thí điểm trên quy mô lớn theo giai đoạn để kích hoạt ngành công nghiệp này. Hiện tại là thời điểm chín muồi để Chính phủ có các hành động mạnh mẽ, nếu muốn đạt được mục tiêu phát triển 7GW điện gió ngoài khơi vào năm 2030 như đề ra trong Dự thảo PDP 8.

Đồng Giám đốc Điều hành của Tập đoàn Copenhagen Offshore Partners (CIP) Henrik Scheinemann cho rằng, Việt Nam nên tập trung vào việc khởi động ngành năng lượng tái tạo, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ các thị trường đã phát triển để chọn một mô hình điện gió ngoài khơi phù hợp với nhu cầu và kỹ năng. 

"Việt Nam có khả năng, giờ là lúc thúc đẩy và cho phép thực hiện các dự án thí điểm, ban hành khung pháp lý rõ ràng, cũng như tạo điều kiện để các nhà đầu tư phát triển dự án chia sẻ nhằm xây dựng chuỗi cung ứng địa phương và giải quyết cơn khát năng lượng xanh ngày càng tăng. CIP cam kết hỗ trợ Việt Nam trên hành trình lâu dài này" - ông Henrik Scheinemann nói.

CIP hiện đã ký Biên bản Ghi nhớ (MOU) với UBND tỉnh Bình Thuận để phát triển Dự án trang trại điện gió ngoài khơi La Gàn 3,5GW tại bờ biển. Cùng đó, CIP đã tiếp tục ký nhiều biên bản ghi nhớ với các nhà cung cấp và cảng biển tại Việt Nam, thiết lập thỏa thuận hợp tác với Công ty Xuân Cầu (Việt Nam) để thúc đẩy các cơ hội phát triển điện gió ngoài khơi ở miền Bắc Việt Nam.

Bàn thêm về vấn đề, Chủ tịch Nhóm công tác khu vực Đông Nam Á, Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu (GWEC) Mark Huchinson nhận định, có nhiều phương án để Việt Nam đạt được mục tiêu 7 GW điện gió ngoài khơi vào năm 2032, như cơ chế phát triển nhanh, cơ chế đấu thầu, ưu đãi thông qua giá…

Tuy nhiên, việc xây dựng các chính sách và cơ chế liên quan cần có lộ trình dài, với điện gió ngoài khơi cần nhiều thời gian hơn. Chính phủ có thể thực hiện thí điểm 2 - 3GW điện gió ngoài khơi thông qua các nguồn tài chính hỗn hợp (ưu đãi, thương mại và một số khoản tài trợ) để giảm chi phí.

"Việc phát triển 7GW điện gió ngoài khơi là rất quan trọng đối với Việt Nam vì mục tiêu phát thải ròng, Nếu triển khai theo cơ chế đấu thầu, sẽ cần ít nhất 2 năm để tháo gỡ các rào cản pháp lý và ban hành biện pháp chính sách. Việc xem xét và đề xuất "Cơ chế phát triển nhanh", thực hiện dự án thí điểm là rất cấp thiết trong giai đoạn quyết sách của Chính phủ: Cơ chế này cần được Chính phủ xem xét và ủng hộ" - ông Mark Hutchinson nhấn mạnh. 

 

Các chuyên gia quốc tế và tập đoàn năng lượng nước ngoài cũng cho rằng, nhà đầu tư cần có sự chắc chắn cho những dự án điện gió ngoài khơi, vốn có quy mô lớn. Do vậy, nhiều khuyến nghị gợi ý Chính phủ có thể thực hiện các bước tiên phong, sớm cho phép nhà đầu tư có thể khảo sát, tìm hiểu, quá trình xây dựng dự án cần bắt đầu tư bây giờ để có thể tạo ra năng lượng từ năm 2030. Đồng thời, có sự minh bạch, rõ ràng trong lựa chọn nhà đầu tư, năng lực, thu xếp vốn để các dự án có thể thực hiện được tốt nhất…