Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm thu nhập hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Tại khoản 5 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định thời gian đóng bảo hiểm xã hội là thời gian được tính từ khi người lao động bắt đầu đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi dừng đóng. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội không liên tục thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.
Như vậy, người lao động đóng bảo hiểm xã hội không liên tục hay thời gian bị ngắt quãng chính là gián đoạn đóng bảo hiểm xã hội.
Hiện nay có 2 loại hình bảo hiểm xã hội đó là bảo hiểm xã hội bắt buộc và bảo hiểm xã hội tự nguyện.
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng các chế độ: Ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất.
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện có các chế độ: Hưu trí; tử tuất; bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định.
Khi người lao động tham gia bảo hiểm xã hội theo một trong 2 loại hình đều được phép đóng bảo hiểm gián đoạn. Việc tính hưởng các chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất) theo tổng thời gian đã đóng nếu người lao động đáp ứng đủ điều kiện.
Tuy nhiên, thời gian đóng bảo hiểm xã hội đã hưởng bảo hiểm xã hội một lần thì không tính vào thời gian làm cơ sở tính hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
Đối với loại hình bảo hiểm xã hội bắt buộc, người lao động sẽ được đóng tiếp nếu thuộc các đối tượng:
- Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo quy định của pháp luật về lao động;
- Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng;
- Cán bộ, công chức, viên chức;
- Công nhân quốc phòng, công nhân công an, người làm công tác khác trong tổ chức cơ yếu;
- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;
- Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí;
- Người đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
- Người quản lý DN, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng tiền lương;
- Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn.
Đối với loại hình bảo hiểm xã hội tự nguyện, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định đối tượng áp dụng, đó là: Người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên và không thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này.
Như vậy, người lao động đóng bảo hiểm xã hội gián đoạn thì hoàn toàn có thể đóng tiếp nếu đáp ứng các điều kiện tham gia bảo hiểm xã hội mà pháp luật quy định. Và khi người lao động đáp ứng đủ 2 điều kiện là có đủ thời gian đóng bảo hiểm xã hội và đủ tuổi nghỉ hưu thì được hưởng chế độ hưu trí, có lương hưu theo quy định.
Theo quy định của Bộ luật Lao động năm 2019 về thực hiện lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, năm 2024 người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc trong điều kiện lao động bình thường được hưởng lương hưu khi nghỉ việc có 20 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên và đủ 61 tuổi đối với lao động nam, đủ 56 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ.