Loay hoay quản lý chất thải chăn nuôi

Trọng Tùng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Theo thống kê của Bộ NN&PTNT, lượng chất thải chăn nuôi phát sinh những năm qua trung bình khoảng 75 triệu tấn/năm, trong đó, có đến 40% không được xử lý. Điều này khiến môi trường nông thôn đứng trước nguy cơ ô nhiễm nghiêm trọng.

40% chất thải không qua xử lý 
Đến nay, tổng đàn gia súc cả nước khoảng 36 triệu con, trong đó có 2,5 triệu con trâu, 5,5 triệu con bò và 28 triệu con lợn. Tổng đàn gia cầm khoảng 386 triệu con. Với tổng đàn gia súc, gia cầm trên, lượng chất thải phát sinh những năm qua cũng tăng nhanh, tính riêng trong năm 2017 là gần 85 triệu tấn.
 Chăn nuôi bò sữa tại xã Đổng Xuyên, huyện Gia Lâm. Ảnh: Trọng Tùng
Đáng lo ngại, số liệu giám sát của Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) cho thấy, 40% trong tổng lượng chất thải chăn nuôi phát sinh hàng năm không qua xử lý trước khi xả thải ra ngoài. Số còn lại được xử lý, nhưng phần lớn chưa đạt quy chuẩn. Xét trên khía cạnh hình thức chăn nuôi, có tới 32% trang trại và 47% nông hộ không có bất kỳ biện pháp xử lý chất thải nào trước khi xả ra môi trường. Chất thải chăn nuôi gây ô nhiễm nguồn nước mặt, ảnh hưởng tới chất lượng nước ngầm, làm suy giảm chất lượng đất canh tác. Không chỉ vậy, sự phân hủy các loại chất thải tạo ra CO2, NH3, CH4, H2S, vi khuẩn, khí nhà kính và mùi khó chịu… ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, sức khỏe của người dân.

Theo rà soát của Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT), hiện, phương pháp xử lý chất thải chăn nuôi phổ biến vẫn là ủ phân compost - sản xuất phân vi sinh, đệm lót và chế phẩm sinh học, nuôi trùn quế làm thức ăn chăn nuôi… Đặc biệt, cả nước hiện đã xây dựng được 467.231 bể khí sinh học (biogas). Đây là giải pháp đơn giản và phù hợp trong xử lý chất thải chăn nuôi. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là thành phần gây ô nhiễm sau xử lý bằng hệ thống biogas qua phân tích vẫn còn rất cao.

Xóa bỏ dần chăn nuôi nhỏ lẻ

Theo tính toán, đối với một dự án chăn nuôi khi được triển khai, kinh phí xử lý môi trường hiện chiếm tỷ lệ từ 25 - 30% tổng mức đầu tư. Ngoài ra, để xử lý 1m3 nước thải đạt quy chuẩn QCVN 62-MT:2016/BTNMT của Bộ TN&MT phải mất tới 11.000 đồng/m3. Cần nguồn tài chính lớn cho quy trình chăn nuôi an toàn, tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn từ các chính sách như Nghị định số 210/2013/NĐ-CP và Quyết định số 50/2014/QĐ-TTg của người dân còn rất khó khăn. Việc chăn nuôi vẫn chủ yếu ở quy mô nhỏ lẻ, khiến việc kiểm soát các yếu tố phát thải không dễ. Trong khi công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi được áp dụng hiện nay cũng chưa loại bỏ triệt để được các yếu tố gây ô nhiễm…

Để giải quyết bài toán chất thải trong chăn nuôi, Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi (Bộ NN&PTNT) Tống Xuân Chinh cho rằng, cần luật hóa các vùng cấm chăn nuôi, bảo vệ môi trường thông qua lộ trình dừng chăn nuôi. Đồng thời xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn, hàng rào kỹ thuật để các tỉnh vành đai cung cấp thực phẩm cho đô thị lớn, tiến tới loại bỏ giết mổ gia súc, gia cầm tại nội đô. Bên cạnh đó, cần sớm rà soát quy hoạch phát triển kinh tế trang trại theo hướng tập trung, xa khu dân cư…

Ở một khía cạnh khác, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường (Bộ TN&MT) Hoàng Văn Thức đề xuất, cần quản lý chặt chẽ quy hoạch chăn nuôi theo lộ trình, dứt điểm xóa bỏ chăn nuôi, giết mổ nhỏ lẻ. Nghiên cứu các mô hình sản xuất nông nghiệp (trong đó có chăn nuôi) không phát thải theo hình thức quay vòng tận thu. Ông Thức cũng cho rằng, bên cạnh từng bước hình thành chiến lược quản lý chất thải theo hướng trao đổi hàng hóa, cần xây dựng cơ chế hỗ trợ đối với các DN thu gom và xử lý chất thải chăn nuôi… Đây sẽ là những giải pháp căn cơ nhằm giảm dần tác động tiêu cực của chất thải chăn nuôi tới môi trường.
Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về nước thải chăn nuôi QCVN 62-MT:2016/BTNMT hiện nay quá cao so với trình độ công nghệ và điều kiện kinh tế của nông hộ. Đây là nguyên nhân khiến rất ít cơ sở chăn nuôi đáp ứng được yêu cầu. Do đó, kiến nghị các bộ, ngành sớm nghiên cứu, có hướng sửa đổi phù hợp.

TS Nguyễn Thành Trung (Viện Chăn nuôi - Bộ NN&PTNT)