Bình Phước: Lừa 7 triệu USD để đi tìm 4.000 tấn vàng ở Núi Tàu!

Bài, ảnh: TÂN TIẾN
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Đó là lời khai của bị cáo Hoàng Văn Lượng, nguyên Tổng Giám đốc Công ty Rạng Đông (trụ sở tại ấp Thạch Màng, xã Tân Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước).

Theo HĐXX phiên sơ thẩm, bị cáo đã dùng các văn bản của UBND tỉnh Bình Phước, UBND TP Hồ Chí Minh, của Bộ Tư lệnh Công binh…, để cho rằng có dự án xây cao ốc. Từ đó kêu gọi đầu tư xây dựng 2 block chung cư 30 tầng. Sau khi 2 đối tác là người nước ngoài chuyển 7 triệu USD (tương đương 145 tỷ đồng) nhưng chờ dài cổ không thấy dự án ở đâu nên làm đơn tố cáo.
Dùng văn bản không phải quyết định cấp đất để hợp tác

Ngày 11/5, TAND tỉnh Bình Phước tiếp tục phiên xử sơ thẩm lần 2 đối với bị cáo Hoàng Văn Lượng (SN 1959, quê tỉnh Thanh Hóa) và tuyên án tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo truy tố của Viện KSND Tối cao. Theo cáo trạng, sau khi nhận chuyển nhượng cổ phần của một số cá nhân ở Công ty Cổ phần Đầu tư Phát triển 67, đến cuối tháng 8/2009, công ty này đổi tên thành Công ty Cổ phần dịch vụ thương mại Rạng Đông (Công ty Rạng Đông, trụ sở tạo ấp Thạch Màng, xã Tân Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước) và Lượng trở thành Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc công ty.
Bị cáo Hoàng Văn Lượng vẫn khẳng định bị oan và tiếp tục kháng cáo kêu oan sau khi bị TAND tỉnh Bình Phước tuyên án chung thân vào ngày 11/5.
Đến tháng 5/2010, Lượng dùng các văn bản của UBND tỉnh Bình Phước, UBND TP Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh Công binh, Nhà máy Z756 và một số hợp đồng của Công ty Rạng Đông để chứng minh với ông Lee Park Linh và ông Lam Yin Choi (quốc tịch Úc) là Công ty Rạng Đông được cấp 3.500 m2 đất tại Nhà máy Z756 – Bộ Tư lệnh Công binh (nay là Công ty TNH MTV 756) để đầu tư xây dựng 2 block chung cư cao 30 tầng. Trong thực tế Công ty Rạng Đông chưa được các cơ quan chức năng cấp phép đầu tư xây dựng dự án.

Để tạo niềm tin, trong tháng 7/2010, Lượng chỉ đạo ông Trần Ngọc (quốc tịch Úc) đưa 2 ông Lee Park Linh và Lam Yin Choi gặp Hoàng Văn Sáu (đeo quân hàm thượng tá, em ruột Lượng) giới thiệu là cổ đông của công ty. Sau đó ông Ngọc cùng ông Đỗ Lễ đưa 2 người trên tới trụ sở Công ty Rạng Đông ở ấp Thạch Màng để xem trang trại chăn nuôi và vườn cao su và cho rằng của công ty. Tiếp đó, Lượng soạn thảo các văn bản như các nghị quyết để giao ông Ngọc thay mặt Công ty Rạng Đông lựa chọn các đối tác Úc ký hợp đồng đầu tư dự án với công ty.

Tháng 9/2010, tại 1 khách sạn ở quận 5 (TP Hồ Chí Minh), 2 người nước ngoài nêu trên ký hợp đồng hợp tác với ông Trần Ngọc (đại diện Công ty Rạng Đông) để đầu tư xây dựng 2 block cao ốc tại diện tích khoảng 3.500 m2 nằm trên đường 3-2 và Cao Thắng nối dài (phường 12, quận 10) với giá 10 triệu USD. Trong đó 7 triệu USD để bên A (Trần Ngọc) làm các thủ tục nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) của lô đất này và chuyển QSDĐ này vào công ty liên doanh của bên A và bên B. 3 triệu USD còn lại được sử dụng làm vốn chung của liên doanh để phát triển dự án.

Nhận 7 triệu USD nhưng vẫn không thấy dự án

Sau khi ký hợp đồng, ông Lee Park Linh và Lam Yin Choi về Úc lập Công ty AVIP nhằm chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của Trần Ngọc tại một số ngân hàng ở Việt Nam. Từ ngày 21/9/2010 đến 6/12/2011, Công ty AVIP đã chuyển vào tài khoản Trần Ngọc 6,5 triệu USD. Đến tháng 1/2012, chuyển tiếp vào tài khoản Lượng 500.000 USD. Sau khi nhận được 6,5 triệu USD, Ngọc chuyển lại cho Lượng 5.545.200 USD và trên 19,5 tỷ đồng. Tổng số tiền lượng Nhận là 6.030.450 USD và trên 19,5 tỷ đồng.

Tuy nhận nhiều triệu USD, nhưng Hoàng Văn Lượng không thực hiện bất cứ thủ tục nào để xin cấp đất đầu tư xây dựng như đã cam kết! Lượng khai số tiền trên sau khi nhận được đã không nhập vào quỹ của Công ty Rạng Đông mà tự chi tiêu sử dụng hết vào việc đi xin dự án nhưng không giải trình được cụ thể vào những việc gì. Còn khu đất do Lượng “vẽ” ra, sau đó được Công ty TNHH MTV 756 ký hợp đồng hợp tác với Công ty Cổ phần XNK Đức Bình và Công ty Cổ phần Đầu tư Việt Nam xây dựng làm khu cao ốc văn phòng – căn hộ và Trung tâm thương mại dịch vụ cao cấp 28 tầng và 1 toà nhà văn phòng cho thuê, trung tâm đào tạo giảng dạy cao cấp 7 tầng.

Theo nhận định của Viện KSND Tối cao, hành vi của Lượng đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Còn luật sư của bị hại cho rằng đã đủ yếu tố để cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, vì vậy đề nghị HĐXX cần xử nghiêm đối với bị cáo, và có biện pháp thu hồi toàn bộ số tiền bị cáo đã lừa đảo để trả cho bị hại. Tại tòa, đại diện Viện KSND tỉnh Bình Phước (thừa ủy quyền của Viện KSND Tối cao) đề nghị mức án dành cho bị cáo Hoàng Văn Lượng là tù chung thân.

Vì vậy sau khi nghị án, HĐXX nhận định sau nhiều lần trả hồ sơ, cơ quan điều tra vẫn chưa làm rõ một số nội dung theo yêu cầu của tòa. Tuy nhiên, bị cáo Lượng đã lợi dụng các văn bản của cơ quan chức năng như UBND tỉnh Bình Phước, UBND TP Hồ Chí Minh, Bộ Tư lệnh công binh… là thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bởi lẽ các văn bản của cơ quan chức năng nêu trên không phải là quyết định giao đất nên tuyên mức án chung thân.
Từng được xác định là… không lừa đảo

Tháng 8/2017, TAND tỉnh Bình Phước đưa ra xét xử sơ thẩm lần 1, nhưng phải trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung còn vì nhiều tình tiết chưa được làm rõ, đó là: Bị cáo Lượng cho rằng năm vào 2011, đã dùng số tiền 7 triệu USD để tham gia vào “Dự án thăm dò tài sản nghi bị chôn giấu tại núi Tàu” thuộc xã Phước Thể, huyện Tuy Phong, Bình Thuận. Tại phiên tòa sơ thẩm lần 2 diễn ra vào ngày 7/5/2018, bị cáo Lượng cùng 2 luật sư bào chữa là Lữ Văn Dũng, Phạm Thanh Thịnh (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) vẫn giữ quan điểm cho rằng đây là tranh chấp dân sự, cơ quan điều tra đã hình sự hóa vụ việc và số tiền bị cáo Lượng chi vào việc xin dự án, cạnh đó kế toán công ty đã chết năm 2013 nên bị cáo không thể chứng minh số tiền đã dùng. Đồng thời bị cáo cũng như luật sư bảo vệ cho rằng dự án tại Nhà máy Z756 là có thật, đã được giao 1.500 m2. Lý do không nhận là do chưa đủ điện tích 3.500 m2. Bị cáo Lượng và các bị hại cũng đã ký hợp đồng thỏa thuận và không có ý chiếm đoạt mà chỉ là hợp tác đầu tư. Từ đó luật sư bào chữa cho bị cáo Lượng đề nghị HĐXX tuyên bị cáo không phạm tội và trả tự do tại tòa. Bởi lẽ, trước đó vào tháng 7/2014, Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã có quyết định không khởi tố vụ án này với lý do sau khi xác minh thấy không có sự việc phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. 

“Trong khi đó, vào ngày 23/5/2014, Viện KSND Tối cao cũng đã có công văn khẳng định không đủ căn cứ xác định ông Lượng và ông Trần Ngọc (người ủy quyền kêu gọi hợp tác) có hành vi lừa đảo của 2 người nước ngoài trên và cho rằng thẩm quyền giải quyết vụ việc thuộc Tòa dân sự TAND TP Hồ Chí Minh”, luật sư Phạm Thanh Thịnh, nói.