Những nguy cơ khiến người lao động vi phạm quy định hưởng bảo hiểm thất nghiệp

Trần Oanh
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là “phao cứu sinh” hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động khi thất nghiệp, giúp họ sớm quay trở lại thị trường lao động. Tuy nhiên, nhiều người lao động chưa hiểu rõ quy định của chính sách BHTN dẫn đến vi phạm mà không biết.

Người lao động vi phạm hưởng BHTN mà không biết

Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, từ năm 2010 đến 2022, cả nước có gần 8,7 triệu người hưởng chính sách BHTN. Do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, nhiều DN giải thể dẫn đến số người hưởng chính sách BHTN tăng vọt so, dẫn đến có tình trạng trục lợi quỹ BHTN.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện thanh kiểm tra tại 9.000 đơn vị. Kết quả, ngành đã ban hành, tham mưu ban hành 448 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền 15 tỉ đồng; yêu cầu truy thu tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, BHTN của 23.118 lao động đóng chưa đúng quy định với số tiền 62,4 tỷ đồng. Đồng thời, yêu cầu thu hồi về quỹ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, BHTN hơn 37,6 tỉ đồng tiền hưởng các chế độ không đúng quy định.

Bà Vũ Thị Thanh Liễu chia sẽ những lý do dẫn đến người lao động có hành vi vi phạm quy định hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Ảnh: Văn Thắng.
Bà Vũ Thị Thanh Liễu chia sẽ những lý do dẫn đến người lao động có hành vi vi phạm quy định hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Ảnh: Văn Thắng.

Tại chương trình giao lưu trực tuyến “Cách nào hạn chế trục lợi bảo hiểm thất nghiệp” do báo Lao động tổ chức ngày 24/8, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội Vũ Thanh Liễu cho rằng, số tiền truy thu trên là khá lớn, nhưng đây là đối với các DN. Trong quá trình chúng tôi trao đổi và làm việc với người lao động cho thấy: Đa số người lao động không cố tình vi phạm pháp luật BHTN, không cố ý trục lợi tiền trợ cấp thất nghiệp. Người lao động vi phạm việc hưởng trợ cấp BHTN bởi một số lý do:

Người lao động nhầm lẫn khái niệm có việc làm. Đa số đều cho rằng, bắt đầu được tham gia bảo hiểm xã hội, BHTN mới bị cắt hưởng trợ cấp thất nghiệp. Người lao động chưa có sự trao đổi cụ thể, rõ ràng với DN về nội dung và hiệu lực của hợp đồng lao động. Tuy nhiên, khi người lao động được tuyển dụng và ký hợp đồng lao động thì ngày có hiệu lực của hợp đồng lao động lại được xác định từ trước thời điểm ký kết, hoặc thời gian thử việc DN vẫn báo tăng đóng bảo hiểm xã hội, BHTN…

Do nhu cầu có việc làm nên dù chưa được ký kết HĐLĐ, NLĐ vẫn đi làm và hưởng lương dẫn đến không xác định được chính xác ngày có việc làm theo hợp đồng lao động.

Từ năm 2010 đến 2022, cả nước có gần 8,7 triệu người hưởng các chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Ảnh minh họa: Trần Oanh.
Từ năm 2010 đến 2022, cả nước có gần 8,7 triệu người hưởng các chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Ảnh minh họa: Trần Oanh.

Vì khoảng cách địa lý giữa nơi làm việc của người lao động với trụ sở làm việc của chủ sử dụng lao động, dẫn tới người lao động được nhận và ký hợp đồng lao động muộn hơn so với ngày có hiệu lực trên hợp đồng lao động đã được đơn vị xác định. Đội ngũ cán bộ nhân sự tại các DN cũng chưa nắm vững các quy định về pháp luật lao động để tư vấn cho người lao động, dẫn tới hướng dẫn và thực hiện chưa đúng các quy định về giao kết hợp đồng lao động...

Điều kiện để người lao động được hưởng trợ cấp BHTN

Chính sách BHTN là “phao cứu sinh” hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động khi thất nghiệp, giúp họ sớm quay trở lại thị trường lao động. Bà Thanh Liễu cho biết, khi tham gia BHTN người lao động được hưởng quyền lợi khi mất việc làm nếu đáp ứng đủ các điều kiện theo Điều 49 của Luật Việc làm, như sau:

Người lao động đã chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc và có các giấy tờ: Bản chính hoặc bản sao của một trong các giấy tờ xác nhận về việc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc (trừ các trường hợp: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc trái pháp luật, hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng).

Người lao động được cán bộ Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội hướng dẫn cách thực hiện hồ sơ đề nghị hưởng chính sách bảo hiểm thất nghiệp nộp qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Ảnh: Trần Oanh.
Người lao động được cán bộ Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội hướng dẫn cách thực hiện hồ sơ đề nghị hưởng chính sách bảo hiểm thất nghiệp nộp qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia. Ảnh: Trần Oanh.

Người lao động đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với người lao động ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn và xác định thời hạn.

Cùng với đó, người lao động đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng. Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm Dịch vụ việc làm trong thời hạn 3 tháng (90 ngày), kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động/hợp đồng làm việc.

Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN.

Để tránh những nguy cơ bị truy thu, xử phạt nếu vi phạm hưởng trợ cấp BHTN, người lao động hết sức chú ý: Khi có việc làm lập tức phải thông báo ngay cho Trung tâm Dịch vụ việc làm tại địa phương nơi mình đã nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp BHTN biết để tránh trùng đóng trùng hưởng - có việc làm mà vẫn hưởng trợ cấp thất nghiệp. Từ đó, dẫn tới thiệt đơn thiệt kép khi bị phát hiện gian lận trục lợi bảo hiểm thất nghiệp là vừa bị thu hồi tiền trợ cấp, bị xử phạt hành chính và không được bảo lưu thời gian đã tham gia BHTN.

Theo bà Thanh Liễu, việc ứng dụng CNTT trong thực hiện chính sách BHTN là vô cùng cần thiết, sẽ giúp hạn chế trục lợi, gian lận BHTN. 7 tháng đầu năm 2023, Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tiếp nhận 16.000 hồ sơ đề nghị hưởng BHTN của người lao động được nộp qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia.

Tuy nhiên, phần mềm BHTN mà Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội cũng như một số trung tâm dịch vụ việc làm trong cả nước vẫn còn nhiều hạn chế chức năng thao tác, hay xảy ra sự cố. Khi đó, việc xử lý thao tác các nghiệp vụ hoàn toàn thủ công dẫn đến tốn rất nhiều nhân lực, thời gian của cán bộ nghiệp vụ, tính chính xác sẽ không cao. Chính vì những khó khăn này, mà tính ứng dụng CNTT vào thực tế thực hiện chưa cao, chưa đạt hiệu quả tối ưu.