Xuân và Tết trong “chuyện cũ Hà Nội"

Nhà văn Bùi Việt Thắng
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Chuyện cũ Hà Nội của nhà văn Tô Hoài in lần đầu năm 1980 (tái bản 2004, 2007).

Nói là chuyện cũ mà không cũ, bởi vẫn thấy đầy đủ cái dư vị của đất Hà Thành văn vật kể cả trong những góc khuất nhất, nốt trầm nhất của nó. Đọc sách này ta được củng cố cái tinh thần “ôn cố tri tân” rất cần thiết cho con người hiện đại sống trong thời đại xã hội tiêu dùng, kỹ trị và văn hóa nghe - nhìn.
 
Mẹ vợ tôi quê ở làng Nghĩa Đô, gọi nhà văn Tô Hoài bằng anh, nên tôi vẫn thường hay đi qua chợ Bưởi nhưng không biết rằng “Mỗi tháng có sáu phiên chợ Bưởi, ngày bốn và ngày chín (…). Lại rõ thêm chợ Bưởi có ba phiên chợ Tết vào cuối tháng Chạp: mười chín, hăm bốn, hăm chín. Năm nào hăm chín bắt làm ba mươi, chợ cuối năm càng đông và tất bật. Phiên chợ Tết cũng gọi là phiên chợ trâu bò. Bởi vì, cả năm, chỉ đến chợ Tết, các làng làm ruộng trong vùng mới đem bò ra chợ bán. Rồi lại nghe người ta nói mà biết nhận xét: chợ mười chín là chợ của người có tiền. Ai sẵn tiền thì sắm Tết sớm. Phiên hăm bốn, chợ của mọi người ta thường thường. Chợ hai mươi chín là chợ người nghèo. Nhà nghèo chạy cái Tết bở hơi tai, cho đến hôm tất niên mới mò được ra chợ mua miếng thịt lợn, nén hương gọi là cho có Tết nhất. Vẫn nhớ những phiên chợ Tết Bưởi như vậy. Và nhớ thể nào tôi cũng có bánh pháo tép dài bằng gang tay. Chốc chốc lại ra thúng hàng cụ Lựu mua miếng khế khô tẩm mật gừng về ngậm. Thế nào u tôi cũng sắm cho tôi đôi guốc mộc mới. Và, cái đầu tôi được cạo trọc lốc, trắng hếu, để ăn Tết”. Tuy nhiên, ngày ấy khi Tết đến trẻ con thì vui sướng còn người lớn thì nửa mừng nửa lo vì “Trẻ con cứ hí hửng cái Tết bé bỏng như thế. Nhưng lại cũng lây người lớn, biết lo buồn cái Tết thật sự. Bởi vì, những ngày áp Tết, nhà tôi thường có người đòi nợ” (Những ngày áp Tết). Dưới ngòi bút của nhà văn Tô Hoài, bao giờ độc giả cũng nhìn thấy có hai Hà Nội - một Hà Nội cổ truyền, hào hoa, thanh lịch và một Hà Nội lầm than. Hai màu sáng tối như tự nhiên đất trời thường là những “gam màu” chính trong trước tác này của nhà văn Tô Hoài. Tôi nghĩ viết như thế mới chinh phục được độc giả trải nghiệm và thông minh.
Trong tâm thức dân gian cái thời khắc chuyển giao của đất trời từ năm cũ sang năm mới được đánh dấu bằng đơn vị thời gian “giao thừa”. Nhà văn Tô Hoài đã viết liền hai bài về cái thời khắc đáng nhớ này: Đêm giao thừa, Đón giao thừa. Cái đêm cuối năm dân gian vẫn gọi là đêm giao thừa là một khoảng thời gian đặc biệt, nó trở nên thiêng liêng trong tâm linh mọi người. Nhưng cảnh đêm giao thừa năm nao hiện lên thật cô liêu “Những giờ phút cuối cùng trong một năm, phố xá vắng ngắt. Chuyến tàu điện chạy vét đã dồn toa về nhà chứa trên Thụy Khuê, bến Hà Đông xe hàng và xe điện Bờ Hồ, chẳng còn một mống người” (Đêm giao thừa). Trong cái đêm giao thừa đặc biệt ấy, nhà nhà, người người náo nức chờ đón thời khắc hồi hộp nhất khi đồng hồ điểm 12 giờ. Lúc đó mọi người đều quây quần trong ngôi nhà ấm cúng của mình để chúc tụng nhau sang năm mới khỏe mạnh, an khang, thịnh vượng. Vậy mà ở ngoài trời vẫn còn một đám trẻ con rất đông còn nấp trong chợ Đồng Xuân “Có đến mấy chục đứa trẻ im lặng ngồi chụm vào nhau cho ấm. Không dám đứng, không dám nói thì thào. Không dám đấu đá nhau (…). Tiếng pháo giao thừa nổ, lan khắp thành phố, ấy là lúc bọn trẻ bíu nhau lũ lượt trèo ra (…). Chốc lát, những đứa trẻ cầu bơ, cầu bất lang thang đi đón giao thừa đã lẫn lộn trong đám người lễ đền Ngọc Sơn, đền Quan Thánh, người đi hái lộc, người xuất hành lấy may” (Đón giao thừa). Cư dân Hà Nội những năm đầu thế kỉ XXI chắc chắn không còn nhìn thấy những cảnh đón giao thừa đến nao lòng như vậy bởi cuộc sống hiện thời chưa phải là chốn thần tiên nhưng cũng không còn cảnh thê lương như thế, nhất là đối với trẻ em. Bây giờ phong vị Tây phương đang lấn sâu vào sinh hoạt tinh thần của người Việt. Cũng là một tất yếu khi thế giới đã là “thế giới phẳng”.
 
Người Việt Nam ta có phong tục khai bút đầu xuân như một nét sinh hoạt văn hoá truyền thống. Khai bút cũng là một ước vọng “tống cựu nghênh tân” của mọi người sống trên cõi trần gian này. Nhà văn Tô Hoài đã viết bài Khai bút trong tâm thế chung ấy nhưng theo cách cảm riêng của mình: “ Không nhớ tôi còn có cái thích khai bút từ năm nào. Nhưng đến bây giờ vẫn giữ cái thói quen hay hay ấy. Và vẫn nhớ tôi khai bút năm mới từ những năm còn xa xôi với nghề văn. Khai bút loăng quăng vào nhật ký, làm bài thơ, viết cái thư, viết vẩn vơ… Rõ ràng một điều gì chờ đợi. Đến khi làm nghề văn thì mỗi năm tôi khai bút bằng viết một truyện ngắn (…). Tôi thường viết cái truyện ngắn trong đêm giao thừa cho đến quá nửa đêm. Đêm giao thừa thức nghe cái nửa đêm cuối cũng là cái nửa đêm mới nhất của hai năm nối nhau (…). Biết bao nhiêu người đã không ngủ đêm giao thừa, từ xưa tới nay. Năm cũ qua, năm mới đến, tiếng chuông chùa văng vẳng ngân ngư xa xa, người thắp nén hương mới, người thay bát nước cúng trên bàn thờ rồi bước ra nhìn vòm không và bóng tối quanh mình, như tìm cho thấy kì được sắc xuân đang sang”.

Chơi chùa (hay đi chùa) cũng là một nét sinh hoạt văn hoá tâm linh của người Việt Nam từ xa xưa nói chung và người Hà Nội nói riêng. Người ta đi chùa ngay sau khi đón giao thừa. Bài Chơi chùa của nhà văn Tô Hoài được viết theo sự trải nghiệm đời sống của một người có cái nhìn dân chủ trước mọi sự vật tồn tại trên thế gian này “Nhưng đi chùa, lên chùa, chơi chùa, mặc dầu có lệ tuần rằm, mùng một và hội chùa, nhưng cửa từ bi thì quanh năm khách thập phương với người làng đến lễ bái ngày nào cũng được (…). Tết nhất chùa chiền càng rộn ràng. Các vãi đã lên nhang đèn sớm tối cả năm, người sắp về cõi càng gần gũi Phật, cả ba ngày tết hầu như thay nhau túc trực đêm ngày trên chùa. Các bác, các cô thì ngày Tết đi chùa xóc thẻ cầu tài, cầu lộc, cầu duyên. Trai thanh, gái lịch chơi chùa làng hay chùa xa suốt mấy ngày Tết. Nhưng thăm thú danh lam thắng cảnh cửa Phật thì lại nhiều nam giới, nhất là các cụ ông”. Đọc đến đây thì tôi chợt hiểu vì sao nhà văn Tô Hoài lại viết là “chơi chùa” (hoặc “đi chùa”, “lên chùa”) chứ không viết là “viếng chùa” hay “thăm chùa”. Phải chăng chùa là một không gian dân chủ, khoáng đạt hơn so với đình, đền, miếu? Nhà văn Tô Hoài đã giải thích “ Cái đình và cái đền, miếu khác hẳn với chùa. Đình miếu tôn nghiêm, chỉ mở cửa khi có sự, các nhà chức việc, các ông từ, ông tự vào ngày sóc vọng thắp hương, ngày hội lễ tế rước xách. Có khi họp hội đồng hay có các quan phủ, quan tổng đốc về. Khách vãng cảnh thì chỉ dạo quanh ngoài”. Bây giờ người ta đi rất nhiều chùa ở Hà Nội, nhưng với nhà văn Tô Hoài thì chỉ có những chùa xa, chùa gần sau nên đi trong dịp Tết: chùa Hương, chùa Quán La, chùa Láng. Bây giờ Hà Nội mở rộng (bao gồm cả tỉnh Hà Tây cũ và một số xã của tỉnh Hoà Bình, có đến 170 chùa), có thể Tết người ta còn đi chùa Thầy, chùa Tây Phương, chùa Bà Đá, chùa Kim Liên…Nhưng tôi thấy sự đi chơi chùa ngày nay cũng đã biến tướng vì người ta đi theo tâm lí đám đông, người ta đi để chứng tỏ mình cũng là con người có tâm linh, thậm chí không ít người đi theo sự mê tín đôi lúc cuồng tín.

Đọc bài Tảo mộ của nhà văn Tô Hoài tôi mới thấm thía việc tảo mộ trước Tết (thường là tháng chạp) và sau Tết từ tháng giêng, hai, ba đến tiết thanh minh lại đi tảo mộ. Nhưng “đất lề, quê thói”, ở quê nhà văn thì “Nhưng nền nếp tảo mộ ở quê tôi không chỉ trong tháng ba đi trông nom mộ phần mà lại chú trọng nhất vào tháng chạp lạnh lẽo, mà có nắng ấm quang đãng”, vì đó là “ ngày lành, giờ lành”. Ở quê tôi cũng thường đi tảo mộ vào tháng chạp vì sắp sang năm mới “Con cháu và người thân ra dọn dẹp quét tước nhà cửa - trần gian sao thì âm vậy”. Đại thi hào Nguyễn Du trong kiệt tác Truyện Kiều đã viết về mỹ tục này: “Thanh minh trong tiết tháng ba/Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”.

Đang có một khái niệm (có người cho như là một môn học) mới “Hà Nội học”. Tôi nghĩ cần thiết đầu tư vào lĩnh vực này như học giả Nguyễn Vinh Phúc đã tận hiến trong im lặng và âm thầm mấy chục năm qua. Đọc Chuyện cũ Hà Nội của nhà văn Tô Hoài để thêm hiểu và thêm yêu Hà Nội - mảnh đất nghìn năm văn hiến. Tất nhiên có thể yêu mà không cần hiểu, nhưng nếu hiểu sâu sắc hơn thì yêu vì thế cũng sâu sắc hơn./.
Hà Nội, tháng 12 năm 2016