Chưa có chính sách, cơ chế đủ mạnh, hiệu quả
Tham luận tại Diễn đàn Kinh tế - Tài chính 2023 diễn ra chiều 17/3 tại Đà Nẵng, TS Cấn Văn Lực cho rằng, lợi thế của VKTTĐMT (gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định) là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên; sở hữu các đảo/quần đảo trọng yếu như Hoàng Sa, Lý Sơn, Cù Lao Chàm. Ngoài ra, vùng có các khu kinh tế ven biển, nhiều cảng biển, sân bay quốc tế quan trọng, tạo thuận lợi giao thương, hợp tác với ASEAN.
Bên cạnh đó, vùng có tiềm năng lớn về khoáng sản, năng lượng và kinh tế biển, du lịch. Đặc biệt, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế đã và đang được áp dụng cơ chế đặc thù…
Có tiềm năng, lợi thế như thế nhưng VKTTĐMT hiện vẫn chưa phát triển xứng tầm. Theo TS Cấn Văn Lực, tồn tại, hạn chế của vùng này là quy mô kinh tế nhỏ, GRDP/người, mật độ kinh tế và năng suất lao động thấp (dân số chiếm 6,7%, đóng góp 5,63% GDP cả nước, thấp hơn Vùng KTTĐ Bắc Bộ và Nam Bộ, GRDP/người năm 2022 đạt 81 triệu đồng, thấp hơn mức trung bình cả nước (95,6 triệu đồng); mật độ kinh tế thấp nhất trong các Vùng KTTĐ; năng suất lao động thấp hơn trung bình cả nước và thấp hơn Vùng KTTĐ phía Bắc và phía Nam).
Ngoài ra, hệ thống hạ tầng KT-XH chưa hoàn chỉnh và đồng bộ, tính kết nối chưa cao; du lịch, kinh tế biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng; quy mô, năng lực doanh nghiệp còn nhỏ; cơ cấu thu ngân sách Nhà nước thiếu bền vững, phụ thuộc vào một số DN FDI, DN lớn; nhiều khoản thu kém bền vững tăng mạnh (thu từ đất đai, thuế thu nhập từ đầu tư chứng khoán…); vai trò hạt nhân, đầu tàu, dẫn dắt chưa rõ nét; một số chỉ tiêu về xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới.
Theo TS Cấn Văn Lực, những tồn tại, hạn chế trên do xuất phát điểm của VKTTĐMT thấp, địa hình phức tạp, trải rộng ảnh hưởng đến tổ chức không gian phát triển KT-XH vùng; hệ thống thể chế chưa phù hợp với thực tiễn phát triển của vùng (quy hoạch, pháp lý, quản lý tài chính - ngân sách, cơ chế, chế tài thực thi liên kết vùng…).
Cũng theo ông Lực, tư duy “kinh tế địa phương” lấn át tư duy “kinh tế vùng”; liên kết vùng bị động, chưa mang tính tổng thể (mới chỉ là phép cộng cơ cơ học, lỏng lẻo; hoạt động của Ban chỉ đạo, Hội đồng điều phối Vùng hầu như chưa phát huy; còn mâu thuẫn, xung đột lợi ích); chưa có quy hoạch thay thế Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH VKTTĐMT, vì thế hầu hết các chỉ tiêu giai đoạn 2016-2020 đều chưa đạt.
Đặc biệt, chưa có chính sách, cơ chế đủ mạnh, hiệu quả để tạo đột phá cho VKTTĐMT và các địa phương (mới có một số cơ chế, ưu đãi cho Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế); còn hạn chế về năng lực, kinh nghiệm quản lý và phát triển cơ sở hạ tầng.
10 giải pháp đột phá
Từ thực tế trên, TS Cấn Văn Lực đưa ra 10 giải pháp đột phá cho VKTTĐMT. Cụ thể, cần phân lại, mở rộng VKTTĐMT (bổ sung thêm một số tỉnh Bắc Trung Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên có tiềm lực kinh tế mạnh; số lượng 7-9 tỉnh).
Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển vùng (thay thế quy hoạch năm 2014; thống nhất với Quy hoạch phát triển Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tầm nhìn 2045; phù hợp với Quy hoạch từng tỉnh; hệ thống chỉ tiêu khoa học, phù hợp với thực tiễn trên cơ sở tư vấn của Hội đồng Vùng).
Bên cạnh đó, cần thể chế hoá cơ chế liên kết vùng, liên kết về quy hoạch, cơ sở hạ tầng, phát triển công-nông nghiệp-dịch vụ, nguồn nhân lực, khoa học công nghệ, giáo dục, liên kết nội vùng và với các vùng lân cận…
Phải xác định kinh tế biển + công nghiệp công nghệ cao, năng lượng tái tạo + nông nghiệp sinh thái là động lực tăng trưởng; cân bằng 3 yếu tố: Kinh tế + xã hội, văn hóa + môi trường; tiên phong tăng trưởng xanh.
Ngoài ra, cần xây dựng, hoàn thiện cơ chế đặc thù; thí điểm hình thức thu hút đầu tư, kinh doanh mới; tiếp tục tạo cơ chế và môi trường hấp dẫn thu hút nguồn vốn đầu tư tư nhân, quốc tế.
Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho phát triển kinh tế và gắn kết liên vùng (đồng bộ hệ thống đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường thủy nội địa, phát triển hệ thống logistics kết nối thuận tiện với cảng biển, sân bay, hệ thống nhà xưởng, bến bãi thúc đẩy lưu thông, xuất khẩu...).
Đồng thời, cơ cấu lại và tạo chuyển biến mạnh mẽ trong các ngành kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp; đa dạng các nguồn lực tài chính cho phát triển kinh tế vùng; tạo đột phá về thu hút nhân lực chất lượng; cải cách thủ tục, bộ máy hành chính của mỗi địa phương, kết hợp với hoàn thiện cơ chế, chế tài điều phối vùng hiệu quả; ưu tiên phát triển nhân lực, dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học công nghệ chất lượng cao.