Đây là đánh giá của các nhà quản lý, chuyên gia, DN tại Hội thảo: “Đánh giá 2 năm thực thi EVFTA tại Việt Nam từ góc nhìn DN” do VCCI tổ chức sáng ngày 10/11, tại Hà Nội.
41% doanh nghiệp được hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA
2 năm đầu thực thi Hiệp định EVFTA vừa quan cũng là khoảng thời gian mà kinh tế thế giới và Việt Nam phải đối mặt với những biến động chưa từng có, từ dịch Covid-19, đứt gãy các chuỗi cung ứng, đến xung đột Nga - Ukraina, khủng hoảng năng lượng, lương thực… Tuy nhiên, theo Phó Chủ tịch VCCI Hoàng Quang Phòng, các số liệu thống kê vĩ mô cho thấy EVFTA đã góp một phần quan trọng làm giảm nhẹ các tác động bất lợi và giúp quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và EU phát triển khả quan.
Cụ thể, tổng kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang EU sau 2 năm đầu tiên thực thi Hiệp định EVFTA đạt 83,4 tỷ USD, tức trung bình 41,7 tỷ USD/năm, cao hơn tới 24% so với kim ngạch xuất khẩu trung bình năm giai đoạn 2016 - 2019 trước đó. Tỷ lệ hàng xuất khẩu tận dụng ưu đãi thuế quan EVFTA năm 2020 đạt 14,8%, tăng lên 20,2% năm 2021 và 24,5% trong 6 tháng năm 2022.
Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), theo số liệu từ VCCI, FDI của EU vào Việt Nam năm 2020 đạt gần 1.376 triệu USD vốn đăng ký, giảm 8,6% so với năm 2019, đứng thứ 8 và chiếm 4,8% tổng vốn FDI vào Việt Nam.
Năm 2021, tình hình thu hút FDI có cải thiện hơn, với tổng vốn đầu tư hơn 1.405 triệu USD, tăng 2,2%, giúp EU vươn lên đứng thứ 5, nhưng tỷ trọng trong tổng FDI giảm nhẹ, chiếm 4,5%. Đặc biệt, tổng vốn đầu tư bình quân năm 2017 - 2021 tăng 86% so với thời gian 2015 - 2016 liền trước đó. Tuy nhiên, đầu tư vào Việt Nam mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất khiêm tốn trong tổng đầu tư ra nước ngoài của EU.
Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Nguyễn Cẩm Trang cho rằng, EVFTA đã góp phần đáng kể thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường đối tác. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng sang thị trường EU như: Sắt thép tăng 739%; máy ảnh, máy quay phim, linh kiện tăng 260%; máy móc và thiết bị tăng 82,3%.
Cùng với đó, một số mặt hàng mới cũng có tăng trưởng cao sang thị trường EU trong giai đoạn này như: gạo, sản phẩm mây tre, cói thảm tăng trên 50%; các sản phẩm gốm, sứ tăng trên 25%; nhóm rau quả, dây điện và dây cáp điện tăng trên 15%.
Từ góc độ của từng DN, thông tin từ kết quả khảo sát về EVFTA được bà Nguyễn Thị Thu Trang - Giám đốc Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI thông tin: Tỷ lệ các DN Việt Nam từng được hưởng lợi từ EVFTA là rất khả quan, với gần 41% DN cho biết, đã từng được hưởng ít nhất một lợi ích nào đó từ EVFTA. Trong đó, lợi ích phổ biến nhất là từ các ưu đãi thuế quan đối với hàng xuất nhập khẩu và hiệu ứng tích cực trong gia tăng đơn hàng, doanh thu, lợi nhuận.
Các DN đã tận dụng khá tốt các cơ hội từ EVFTA. Đây là Hiệp định có số lượng DN biết đến nhiều nhất đến thời điểm này, với khoảng 94% DN từng nghe nói hoặc biết ở các mức độ khác nhau về EVFTA. Đồng thời, cũng là FTA mà có tỷ lệ DN biết rõ nhiều nhất. Cứ 10 DN thì có tới 3 DN biết rõ về EVFTA và 1 DN biết rất rõ về các cam kết của EVFTA có liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình.
Phó Chủ tịch Hiệp hội DN TP Hồ Chí Minh Phạm Ngọc Hưng đánh giá, cộng đồng DN đánh giá rất cao những hỗ trợ của Bộ Công thương, các Thương vụ tại nước ngoài… đã thực hiện rất tốt, mang lại hiệu quả hỗ trợ DN trong các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, cung cấp thông tin, tập huấn thực thi EVFTA nói riêng và các FTA nói chung. Qua đó, giúp cộng đồng DN có thể nắm bắt nhanh, chính xác, áp dụng hiệu quả các cam kết thuế quan trong các FTA. Thời gian tới, DN mong tiếp tục nhận được sự sát cánh, đồng hành này của Bộ Công thương để thúc đẩy xuất khẩu vào EU.
Doanh nghiệp cần chủ động hơn
EU là một thị trường có tiêu chuẩn cao, nhưng mức chi trả cũng rất cao, nên đây sẽ là cơ hội để DN Việt Nam khai thác, tận dụng hội xâm nhập vào thị trường. Đó cũng là lý do, kết quả khảo sát của 500 DN cho thấy, nhìn về tương lai, 76% DN cho rằng, EVFTA và các FTA sẽ có tác động tới triển vọng kinh doanh trong 3 năm tới, và phần lớn lạc quan đây sẽ là các tác động tích cực.
Cơ hội thúc đẩy xuất khẩu sang EU thông qua EVFTA là rất lớn, báo cáo của VCCI cũng cho thấy, DN cũng chỉ ra các lực cản có thể khiến họ khó hưởng lợi từ EVFTA và các FTA. Đáng kể nhất là các biến động và bất định của thị trường (47% DN đề cập), năng lực cạnh tranh hạn chế (46%), thiếu thông tin về cam kết và thách thức tận dụng (40%).
Để tiếp tục xây dựng kế hoạch phát triển thị trường của DN cho từng sản phẩm vào thị trường EU, bà Nguyễn Cẩm Trang cho rằng, sự chủ động trong nhận thức và hành động của DN là điều kiện cần và các nỗ lực cải thiện năng lực cạnh tranh là điều kiện đủ, để DN có thể hiện thực hóa các lợi ích từ EVFTA hay các FTA nói chung.
“Định vị thương hiệu và xúc tiến thương mại là điều các DN cần quan tâm trong thời điểm hiện nay. Các DN cần chủ động nắm bắt thông tin về cơ hội cắt giảm thuế quan đối với mỗi sản phẩm đặc trưng của DN mình. DN chủ động nắm bắt thông tin về thị trường EU với các xu hướng, thị hiếu cũng như cơ chế nhập khẩu hàng hóa, trong đó quan tâm đến các yêu cầu chất lượng tránh để hàng hóa bị trả về vì không đáp ứng tiêu chuẩn…” - bà Trang khuyến nghị.
Để tận dụng tốt hơn những cơ hội từ EVFTA, TS Cao Xuân Phong - Trưởng ban Nghiên cứu pháp luật quốc tế - Viện Khoa học pháp lý cho rằng, cần cải cách pháp luật, thể chế trong bối cảnh thực thi EVFTA và các FTA thế hệ mới trong thời gian tới. Nhà nước cần hỗ trợ, đồng hành cùng DN tranh thủ nhu cầu khi các nước EU cắt giảm sản xuất đối với một số mặt hàng công nghiệp nặng, hóa chất, phân bón, thép, lương thực để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng này.
Cụ thể, Chính phủ cần có các chính sách hỗ trợ DN hơn nữa về thông tin thương mại EU thông qua phát triển hệ thống thông tin thị trường, tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, tăng cường công tác phân tích, dự báo thị trường và nghiên cứu, ban hành các chính sách tạo thuận lợi cho DN, qua đó hỗ trợ DN tham gia trực tiếp, hiệu quả chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị hàng nông sản khu vực EU. Cùng với đó cần tăng cường công tác cảnh báo các quy định về rào cản và những vấn đề phát sinh đối với nông sản xuất khẩu.