Ông Wickremesinghe đã nhậm chức với nguồn cung cấp nhiên liệu và điện khan hiếm do thiếu ngoại hối và lạm phát hoành hành ở mức 75%. Đồng Rupee của Sri Lanka trượt giá từ 203 Rupee 1 USD xuống 260 Rupee 1 USD. Tháng 5 vừa rồi, chính phủ Sri Lanka đã vỡ nợ quốc tế. Ngân hàng Phát triển châu Á dự đoán, nền kinh tế sẽ giảm 7,2% trong năm nay.
Một số người biểu tình đã lật đổ Gotabaya Rajapaksa khỏi nhiệm kỳ tổng thống vào tháng trước cũng tỏ ra cảnh giác không kém với Wickremesinghe, một đồng minh lâu năm của vị cựu tổng thống. Nơi ở riêng của Wickremesinghe đã bị tấn công và đốt cháy vào tháng trước khi ông còn là thủ tướng, và bây giờ khi ông đang đương chức tổng thống, một bộ phận người biểu tình cũng đang yêu cầu Wickremesinghe phải từ chức.
Bên cạnh tình hình trong nước tồi tệ nhất kể từ khi Sri Lanka giành được độc lập vào năm 1948, chính phủ Sri Lanka đang tìm cách thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trong thời điểm kinh tế toàn cầu đang diễn biến theo chiều hướng xấu. Giữa cuộc chiến ở Ukraine và tình hình ngày càng nghiêm trọng tại Pakistan và Bangladesh, Colombo sẽ phải tìm cách để thu hút sự chú ý của thế giới về cuộc khủng hoảng của mình.
Wickremesinghe dự kiến sẽ sớm công bố chiến lược kinh tế mới của ông. Các cuộc đàm phán về gói hỗ trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế được cho là đang có tiến triển tốt và chính phủ đặt mục tiêu trình bày kế hoạch tái cơ cấu các khoản nợ vào cuối tháng này với hy vọng thuyết phục được các chủ nợ.
Một số dấu hiệu đầy hy vọng đang xuất hiện. Giá trái phiếu chính phủ quốc tế của Sri Lanka đã tăng khoảng 24% trong những ngày còn lại của tháng 7 sau khi Wickremesinghe được bổ nhiệm. Với sự thúc đẩy từ đồng Rupee suy yếu, Sri Lanka trong tháng 6 đã báo cáo thặng dư thương mại hàng tháng đầu tiên trong 20 năm trong khi thu nhập xuất khẩu tăng 24% so với năm ngoái.
Tuyên bố tình trạng khẩn cấp mới của Wickremesinghe đã mang lại ít nhiều tác dụng, hàng ngũ biểu tình đã giảm đi đáng kể. Hầu hết người dân dường như sẵn sàng cho Wickremesinghe một cơ hội để tận dụng mối quan hệ bền chặt của ông ấy với phương Tây, Nhật Bản và Ấn Độ.
Tuy vậy, Sri Lanka không dễ để thoát khỏi tình cảnh này. Một mối hiểm họa tiềm tàng lớn, được đưa ra bởi các học giả như các nhà kinh tế của Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ Jahyeong Koo và Sherry L. Kiser trong nghiên cứu của họ về sự phục hồi của Hàn Quốc sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, là một cuộc khủng hoảng tiền tệ cũng có thể trở thành một cuộc khủng hoảng ngân hàng.
Với việc các ngân hàng Sri Lanka đang bị căng thẳng từ các lệnh cấm nợ và tổn thất đối với các vị thế ngoại hối, chính phủ cần phải có những hành động cụ thể hơn nữa để ngăn chặn sự bất ổn. Nhiều ngân hàng trong nước nắm giữ một số lượng đáng kể trái phiếu chính phủ bằng đồng Rupee và USD.
Để bảo vệ lợi ích của họ trong quá trình tái cơ cấu nợ của chính phủ, các nhà chức trách Sri Lanka có thể xem xét kéo dài thời hạn của tất cả các trái phiếu nước ngoài đáo hạn đến năm 2025 và hoãn lãi suất trái phiếu thêm ba năm thay vì cắt giảm tiền gốc đến hạn trả nợ.
Một biện pháp khác sẽ mang lại hiệu quả là cắt giảm thuế của các ngân hàng. Chính phủ Sri Lanka cũng có thể cung cấp cổ phần chiến lược trong Ngân hàng Nhà nước Ceylon và Ngân hàng Nhân dân cho các công ty tài chính phát triển quốc tế như Tập đoàn Tài chính Quốc tế của Ngân hàng Thế giới, cũng như niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán địa phương.
Đồng thời, chính phủ Sri Lanka cũng nên tìm cách bán cổ phiếu của các công ty nhà nước có lợi nhuận như Sri Lanka Insurance và Sri Lanka Ports Authority trên Sàn giao dịch chứng khoán Colombo để thu hút vốn nước ngoài. Việc tái tư nhân hóa SriLankan Airlines nên là một ưu tiên khác.
Để giải quyết cuộc khủng hoảng năng lượng, chính phủ Sri Lanka nên tự do hóa việc bán lẻ nhiên liệu, phân phối khí dầu mỏ hóa lỏng và cung cấp nhiên liệu hàng không. Đồng thời, cho phép các công ty nước ngoài có thể tìm nguồn cung cấp ở nước ngoài sẽ giúp giảm bớt tình trạng thiếu hụt trong nước.
Các tổ chức nhà nước khác cũng cần phải được xem xét kỹ lưỡng.
Với Điện lực Ceylon có thể được tái cấu trúc để tách truyền tải và phân phối điện khỏi sản xuất điện. Việc kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài có thể cung cấp số vốn cần thiết để mở rộng sản xuất điện mặt trời và năng lượng gió của Sri Lanka.
Với Ceylon Petroleum và Sri Lanka Railways, các nhà chức trách nên xem xét việc cắt giảm trợ cấp, giảm tình trạng quá tải nhân sự bằng cách tái cấu trúc hoạt động và điều chỉnh giá tốt hơn với nhu cầu thị trường.
Các quan chức chính phủ Sri Lanka nên tìm hiểu sâu hơn về cách các quốc gia Đông Á có thể phục hồi nhanh chóng sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 của họ. Một nghiên cứu của Lee Jong-wha và Park Young-chul thuộc Đại học Hàn Quốc cho thấy, các quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất đã xoay sở để trở lại mức sản lượng kinh tế trước khi chết chỉ trong hai đến ba năm, với sự phục hồi nhanh hơn cho những người được nhận sự giúp đỡ từ IMF.
"Chúng tôi nhận thấy rằng sự phục hồi nhanh chóng ở Đông Á chủ yếu được thúc đẩy bởi các chính sách kinh tế vĩ mô phù hợp, môi trường bên ngoài thuận lợi và cấu trúc định hướng xuất khẩu nhiều hơn," Lee và Park viết.
Mặc dù Sri Lanka chưa thể tin tưởng vào một môi trường bên ngoài thuận lợi, nước này vẫn có thể cải thiện các chính sách kinh tế và dựa vào lĩnh vực xuất khẩu của mình. Du lịch, một nguồn ngoại hối quan trọng trước đại dịch COVID-19 và cuộc chiến Ukraine, dự kiến sẽ bắt đầu đóng góp trở lại cho nền kinh tế Sri Lanka vào cuối năm nay khi các điều kiện dần trở nên ổn định.
Sự trở lại ổn định cũng có thể thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài bởi lãi suất cao và định giá thấp của Sri Lanka mang lại. Tín phiếu kho bạc chính phủ bằng Rupee đang tạo ra lãi suất ngắn hạn 30%. Việc thông qua một thỏa thuận tái cơ cấu nợ sẽ giúp Sri Lanka thoát khỏi tình trạng vỡ nợ trên các xếp hạng toàn cầu. Các căn biệt thự bên bờ biển đã giảm khoảng 50% giá trị tính theo đồng đô la trong bối cảnh đất nước suy thoái, cũng mang nhiều tiềm năng để thu hút các nhà đầu tư tìm kiếm lợi nhuận cao ở Sri Lanka.