Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi)

Khang Nhi - Công Thọ
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Sáng 24/10, tiếp tục thực hiện Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Phùng Quốc Hiển, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi).

Tại Kỳ họp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng nêu rõ: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã có Báo cáo số 599/BC-UBTVQH14 giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 10. Sau đây, trân trọng báo cáo Quốc hội tóm tắt những vấn đề lớn giải trình tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật này như sau:
Về chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường
 Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, các chính sách cơ bản về bảo vệ môi trường đã được thể hiện tại Điều 5 của Dự thảo Luật.
Về chính sách khuyến khích doanh nghiệp tham gia bảo vệ môi trường: Dự thảo Luật đã có quy định các hoạt động đầu tư kinh doanh về bảo vệ môi trường được ưu đãi, hỗ trợ như tại Điều 142 nhằm khuyến khích dự án đầu tư thuộc ngành nghề thu gom, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải; thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất, xử lý chất thải kết hợp thu hồi năng lượng, kinh doanh dịch vụ, sản phẩm thân thiện môi trường…; quy định về cơ sở, sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường (Điều 146) và mua sắm các sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường (Điều 147).
 Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng.
Để chủ động kiểm soát và giảm thiểu nguy cơ gây ô nhiễm môi trường từ các dự án đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội bền vững, Dự thảo Luật đã bổ sung 02 nội dung chính sách về sàng lọc dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí về môi trường; lồng ghép và thúc đẩy các mô hình kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế các-bon thấp trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự án như tại khoản 10 và khoản 11 Điều 5.
Về bảo vệ môi trường nước, đất, không khí
Để thực hiện các biện pháp ứng phó với tình trạng ô nhiễm tại các đô thị lớn, Dự thảo Luật đã có quy định để bảo đảm tính đồng bộ, liên kết giữa kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước mặt, chất lượng môi trường không khí với quy hoạch bảo vệ môi trường; đồng thời quy định rõ trách nhiệm của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí; đánh giá, theo dõi chất lượng môi trường không khí và công khai thông tin; cảnh báo cho cộng đồng và triển khai các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm; tổ chức thực hiện biện pháp khi chất lượng môi trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng như tại các Điều 9, 13 và 14.
Về phân bổ hạn ngạch xả nước thải vào môi trường nước mặt, nội dung này là phù hợp với mục tiêu sử dụng nước đã được Luật Bảo vệ môi trường 2014 quy định tại Điều 53, 54 và 55. Bộ Tài nguyên và Môi trường và UBND cấp tỉnh có trách nhiệm kiểm soát các nguồn nước thải vào lưu vực sông, đề nghị Quốc hội cho phép tiếp tục quy định nội dung này trong Luật Bảo vệ môi trường.
Về quy hoạch bảo vệ môi trường: Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh lý quy định về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường như tại Điều 23, Điều 25 để thống nhất với Luật Quy hoạch và bảo đảm mục tiêu bảo vệ môi trường. Đồng thời xin tiếp thu không quy định nội dung quy hoạch bảo vệ môi trường trong Luật này mà thực hiện theo Luật Quy hoạch.
Về lộ trình di dời các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ gây ô nhiễm môi trường, không phù hợp với quy hoạch, Dự thảo Luật giao Chính phủ quy định chi tiết nguyên tắc, tiêu chí xác định vùng bảo vệ nghiêm ngặt, vùng hạn chế phát thải phù hợp với mục tiêu quản lý chất lượng môi trường; định hướng đầu tư phát triển trong các vùng này; quy định lộ trình di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh không phù hợp với mục tiêu quản lý chất lượng môi trường tại Điều 25 để bảo đảm sự linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa phương và yêu cầu bảo vệ môi trường trong từng thời kỳ phát triển.
Về phân loại dự án đầu tư có tác động đến môi trường
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy việc căn cứ quy mô, tính chất và mức độ tác động đến môi trường để phân loại dự án phải thực hiện thủ tục môi trường nói chung là phù hợp. Theo đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉnh sửa Dự thảo Luật để báo cáo Quốc hội theo 02 phương án, đồng thời các điều luật liên quan tương ứng cũng được chỉnh sửa theo. Cụ thể như sau:
Phương án 1 (Điều 29a): Theo Tờ trình số 252/TTr-CP của Chính phủ. Điều 29a đã quy định về phân loại dự án đầu tư thành 04 nhóm, gồm: (1) Dự án đầu tư phải thực hiện tác động đến môi trường và phải có giấy phép môi trường; (2) Dự án đầu tư chỉ phải thực hiện tác động đến môi trường và không phải có GPMT; (3) Dự án đầu tư không phải thực hiện tác động đến môi trường nhưng phải có giấy phép môi trường; (4) Dự án không phải thực hiện tác động đến môi trường và không phải có giấy phép môi trường. Tiêu chí cụ thể xác định từng loại đối tượng này được quy định tại Điều 31a (đối tượng phải thực hiện tác động đến môi trường) và Điều 40a (đối tượng phải có giấy phép môi trường). Phương án này có ưu điểm là thuận tiện trong việc tra cứu đối tượng dự án tương ứng với các thủ tục môi trường phải thực hiện. Tuy nhiên, có nhược điểm là không áp dụng được các tiêu chí môi trường xuyên suốt để quản lý môi trường trong các dự án đầu tư; không bảo đảm linh hoạt trong việc điều chỉnh danh mục đối tượng phải thực hiện tác động đến môi trường, giấy phép môi trường.
Phương án 2 (Điều 29b): Là phương án tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, theo đó, quy định rõ tiêu chí phân loại dự án theo mức độ tác động đến môi trường. Đồng thời, dự án đầu tư được phân thành 4 nhóm gồm: có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ và không có nguy cơ tác động xấu đến môi trường. Theo phương án này, giao Chính phủ căn cứ quy định của khoản 1, khoản 2 Điều này để quy định tiêu chí cụ thể và ban hành danh mục dự án thuộc các nhóm I, II và III. Quy định này có ưu điểm là sử dụng thống nhất, xuyên suốt các tiêu chí môi trường trong xác định đối tượng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường; đánh giá tác động môi trường; giấy phép môi trường, đăng ký môi trường.
Về tiêu chí yếu tố nhạy cảm về môi trường nơi thực hiện dự án
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin được tiếp thu và đã quy định rõ hơn tiêu chí này nhằm đề cập tầm quan trọng của đối tượng bị tác động của dự án, vị trí của dự án đối với vùng nhạy cảm môi trường tại điểm c khoản 1 Điều 29b. Quy định này cũng là cơ sở để giao Chính phủ ban hành tiêu chí cụ thể và danh mục dự án thuộc các nhóm I, II và III. Về quy định đối tượng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường cho phù hợp với với Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), Luật Xây dựng. Về nội dung này, Dự thảo Luật trình 02 phương án:
Phương án 1 (theo Tờ trình số 252/TTr-CP của Chính phủ đã được chỉnh lý bổ sung): Như thể hiện tại Điều 30a của Dự thảo Luật, theo đó tất cả các dự án đầu tư phải có chủ trương đầu tư đều là đối tượng phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Phương án này có ưu điểm là: đối tượng dự án phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường thống nhất với các luật về đầu tư và xây dựng. Phương án này có hạn chế là: Bỏ sót nhiều dự án đầu tư có nguồn vốn từ tư nhân mà không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư (theo quy định của Luật Đầu tư) nhưng lại có tác động lớn đến môi trường. Nhiều dự án đầu tư công, dự án PPP hoặc dự án đầu tư thuộc nguồn vốn tư nhân chỉ tác động rất ít tới môi trường khi triển khai thực hiện nhưng vẫn phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường gây tốn kém, lãng phí.
Phương án 2 (Tiếp thu để phù hợp với phân loại dự án theo tiêu chí về môi trường quy định tại Điều 29b Dự thảo Luật): Như được thể hiện tại Điều 30b chỉ các dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ở mức độ cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường.
Phương án 2 có ưu điểm là: (1) Giảm thủ tục hành chính cho nhà đầu tư khi thực hiện dự án thuộc đối tượng phải quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng không thuộc nhóm dự án có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ở mức độ cao. Đối với các dự án đầu tư công, dự án PPP hoặc dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không có tác động xấu đến môi trường, nhà đầu tư sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường; (2) Không bỏ sót đối tượng là các dự án đầu tư có nguồn vốn tư nhân không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng lại có nguy cơ tác động xấu đến môi trường ở mức độ cao. Nhà đầu tư tránh được lãng phí về tài chính, thời gian trong trường hợp dự án không đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường ở ngay giai đoạn này.
Hạn chế của phương án 2 là chỉ đánh giá sơ bộ tác động môi trường đối với nhóm I: Nhóm có nguy cơ tác động xấu đến môi trường; còn các nhóm khác không được đánh giá sơ bộ tác động môi trường có thể để sót, để lọt các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường không nên đầu tư, không cho phép đầu tư ngay từ khâu nghiên cứu tiền khả thi. Nếu tiếp tục thực hiện nghiên cứu khả thi sẽ gây tốn kém, lãng phí. Do đó, tăng cường công tác bảo vệ môi trường, làm sớm ngay từ lúc nghiên cứu tiền khả thi là cần thiết. Về đối tượng dự án phải thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường bảo đảm tính thống nhất với Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP), nhưng có thu hẹp hơn so với Luật Đầu tư công.
Để bảo đảm tính thống nhất, Dự thảo Luật đã bổ sung quy định thực hiện đánh giá sơ bộ tác động môi trường như tại khoản 3 Điều 175. Vấn đề này, có 39/50 Đoàn đại biểu Quốc hội có ý kiến đề nghị thực hiện theo Phương án 2 là phương án phân loại dự án theo tiêu chí về môi trường quy định tại Điều 29b Dự thảo Luật. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin ý kiến các đại biểu Quốc hội.
Về đánh giá tác động môi trường
Dự thảo Luật đã tiếp thu, chỉnh lý quy định đối tượng phải thực hiện tác động môi trường ở cả 2 phương án (Điều 31a, Điều 31b); chỉnh lý yêu cầu về nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất đối với tổ chức hoặc chủ dự án tự thực hiện tác động môi trường; quy định chủ dự án được trình đồng thời hồ sơ thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường với hồ sơ thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi cho thống nhất với Luật Xây dựng (khoản 2 Điều 35); bổ sung điều kiện, trình độ của chuyên gia thành viên hội đồng thẩm định tác động môi trường (điểm b khoản 3 Điều 35); trách nhiệm của thành viên của Hội đồng thẩm định trước pháp luật về ý kiến nhận xét, đánh giá của mình (điểm đ khoản 3 Điều 35).
Về hình thức và đối tượng tham vấn trong tác động môi trường: Dự thảo Luật đã tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội quy định rõ và cụ thể hơn đối tượng tham vấn là cộng đồng dân cư hoặc nhóm người chịu tác động trực tiếp bởi dự án và cơ quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến dự án; quy định rõ trách nhiệm thực hiện tham vấn, nội dung tham vấn chủ yếu cũng như các hình thức tham vấn, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết như tại Điều 33 để đảm bảo tính khả thi.
Về thực hiện cơ chế “một cửa liên thông” khi trong thủ tục thẩm định báo cáo tác động môi trường: Quy định tại khoản 2 Điều 35 Dự thảo Luật cho phép chủ dự án được trình đồng thời hồ sơ thẩm định báo cáo tác động môi trường với hồ sơ thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi; tùy vào loại hình dự án, chủ dự án sẽ chủ động tính toán cho phù hợp thời điểm trình thẩm định báo cáo tác động môi trường mà không phụ thuộc vào tiến độ của các bước thẩm định khác như theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về phòng cháy, chữa cháy.
Về thẩm quyền thẩm định báo cáo tác động môi trường: Dự thảo Luật trình các vị đại biểu Quốc hội 02 phương án như thể hiện tại Điều 36 dự thảo Luật, cụ thể như sau:
Phương án 1: Theo Tờ trình số 252/TTr-CP của Chính phủ là giao Bộ quản lý công trình xây dựng chuyên ngành chủ trì, phối hợp với UBND cấp tỉnh tổ chức thẩm định báo cáo tác động môi trường đối với dự án thuộc thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của mình nhằm phát huy vai trò, năng lực, nguồn lực của các Bộ chuyên ngành, thuận lợi cho việc thực hiện thủ tục hành chính liên thông.
Phương án 2: Theo ý kiến của nhiều Đoàn Đại biểu Quốc hội là giao cho UBND cấp tỉnh phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang bộ thẩm định các dự án thuộc thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ, cơ quan ngang bộ (trừ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an) trên địa bàn. Việc giao UBND cấp tỉnh thẩm định sẽ nắm rõ mức độ tác động của dự án đến môi trường, kinh tế - xã hội tại địa phương và thống nhất với thẩm quyền, trách nhiệm quản lý xuyên suốt tại địa phương từ thẩm định kết quả báo cáo ĐTM, cấp giấy phép môi trường, kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường của dự án, cơ sở. Kết quả xin ý kiến, đa số các Đoàn Đại biểu Quốc hội đề nghị thực hiện theo Phương án 2 (40/50 Đoàn có ý kiến về nội dung này). Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin ý kiến của các đại biểu Quốc hội về vấn đề này.
Về giấy phép môi trường: Dự thảo Luật trình 02 phương án:
Phương án 1 (Phương án Chính phủ trình): Chỉ dùng 01 loại giấy phép môi trường trong đó bao gồm cả nội dung cấp phép xả nước thải vào công trình thủy lợi theo quy định của Luật BVMT năm 2014, Luật Thủy lợi và Luật Tài nguyên nước.
Về việc dùng một loại giấy phép, trong đó có cả Giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi, Chính phủ báo cáo như sau: Giấy phép xả nước thải vào nguồn nước và giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi đều có nội dung cơ bản giống nhau cho 01 đối tượng xả nước thải. Do đó, theo giấy phép mới sẽ giải quyết được tình trạng một đối tượng là nước thải xả thải ra môi trường phải chịu sự quản lý của hai loại giấy tờ thủ tục hành chính do các cơ quan về quản lý khác nhau thực hiện; bảo đảm nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước; giảm đầu mối trong quản lý. Tuy nhiên, thực hiện phương án 1 phải sửa đổi, bổ sung 02 khoản của Điều 44 (điểm d khoản 1 và khoản 2 Điều 44) và bãi bỏ Điều 58 của Luật Thủy lợi số 08/2017/QH14 như tại Điều 173; đồng thời có quy định chuyển tiếp về giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi như tại Điều 174 của Dự thảo Luật và phải phân định rõ trách nhiệm của cơ quan cấp phép xả nước thải vào công trình thủy lợi (thuộc ngành tài nguyên và môi trường) và cơ quan quản lý vận hành và chịu trách nhiệm về chất lượng nước của công trình thủy lợi phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt (thuộc ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
Phương án 2: Vẫn có giấy phép “xả nước thải vào công trình thủy lợi” theo quy định của Luật Thủy lợi được Quốc hội thông qua năm 2017 và đang được triển khai thực hiện một cách thuận lợi. Theo phương án 2 thì việc có Giấy phép xả nước thải vào công trình thủy lợi sẽ phân định rõ trách nhiệm của ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đảm bảo chất lượng nguồn nước thủy lợi. Cơ quan quản lý nhà nước về công trình thủy lợi sẽ bảo đảm việc kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời việc xả nước thải vào hệ thống công trình thủy lợi, bảo vệ chất lượng nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sinh hoạt của người dân. Một số ý kiến cho rằng nếu theo phương án 1 thì phải sửa tới 13 điều của Luật Thủy lợi và có làm quản lý thủy lợi tốt hơn không thì vẫn là vấn đề ở phía trước.
Kết quả xin ý kiến các Đoàn Đại biểu Quốc hội, theo Phương án 1 là 22/28 Đoàn có ý kiến, theo Phương án 2 là 6/28 Đoàn có ý kiến, còn 27 Đoàn đại biểu Quốc hội chưa có ý kiến trong tổng số 55 Đoàn Đại biểu Quốc hội gửi báo cáo tổng hợp. Căn cứ 02 phương án nêu trên, Dự thảo Luật đã thể hiện quy định của các điều liên quan cho từng phương án tại Mục 4 – Giấy phép môi trường. Theo đó, phương án 1 gồm các điều từ Điều 40a đến Điều 49a; phương án 2 gồm các điều từ 40b đến Điều 45b. Đồng thời có quy định theo 02 phương án ở Điều 173 và Điều 174. Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin ý kiến các đại biểu Quốc hội về lựa chọn phương án này.
Về quản lý chất thải
Về quản lý chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân: Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã chỉnh lý quy định về phân loại chất thải rắn sinh hoạt thành 3 loại cơ bản và căn cứ điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa phương, UBND cấp tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt khác như tại Điều 76; quy định chi tiết về quản lý chất thải rắn sinh hoạt của hộ gia đình, cá nhân; quy định giá tối đa đối với dịch vụ thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt; mức chi trả của hộ gia đình, cá nhân cho công tác thu gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn sinh hoạt dựa trên lượng, loại chất thải phát sinh. Về lộ trình thực hiện chậm nhất trước ngày 31/12/2024 như tại khoản 9 Điều 80 Dự thảo Luật.
Về quản lý chất thải rắn công nghiệp thông thường: Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã quy định chất thải rắn công nghiệp thông thường được phân loại thành 03 nhóm: (1) Nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường được tái sử dụng, tái chế làm nguyên liệu sản xuất; (2) Nhóm chất thải rắn đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng; (3) Nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường phải xử lý như tại khoản 1 Điều 82. Đối với tro, xỉ từ các nhà máy nhiệt điện phải được phân định, phân loại để quản lý phù hợp, đảm bảo các yêu cầu về hợp chuẩn, hợp quy làm nguyên liệu sản xuất thì được quản lý như đối với sản phẩm, hàng hóa; đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật thì được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng.
Quản lý chất thải nguy hại: Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành hướng dẫn kỹ thuật và mẫu biểu khai báo, phân loại, thu gom, lưu giữ chất thải nguy hại; hướng dẫn kỹ thuật về phương tiện, thiết bị lưu chứa, vận chuyển, xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại, cũng như hướng dẫn phòng ngừa và ứng phó sự cố trong quá trình vận chuyển chất thải nguy hại như quy định tại khoản 5 Điều 84.
Về ứng phó với biến đổi khí hậu
Tiếp thu ý kiến các đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo nghiên cứu rà soát, tiếp thu quy định cụ thể về giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (Điều 92); quy định kiểm kê khí nhà kính cho phù hợp với quy định của Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu; bổ sung, quy định rõ trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND cấp tỉnh; các cơ sở có liên quan để bảo đảm thực hiện hiệu quả hoạt động về Bảo vệ tầng ô-dôn (Điều 93). Bổ sung, làm rõ nội dung cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu (Điều 95). Quy định các cơ sở được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước.
Về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường
Theo Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng, có nhiều loại sự cố làm phát sinh sự cố môi trường đã được quy định tại Luật Hóa chất đối với sự cố hóa chất; Luật Phòng cháy, chữa cháy đối với sự cố cháy, nổ; Luật Phòng, chống thiên tai đối với sự cố thiên tai; Luật Năng lượng nguyên tử đối với sự cố phóng xạ. Nghiên cứu tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã quy định sự cố môi trường gồm có 4 cấp (cấp cơ sở, cấp huyện, cấp tỉnh và cấp quốc gia) xác định theo phạm vi ảnh hưởng về không gian, địa giới hành chính như tại khoản 2 Điều 124. Đồng thời, đã chỉnh lý các nội dung liên quan trách nhiệm chỉ đạo ứng phó sự cố môi trường của cơ quan ứng phó ở Trung ương và địa phương cũng như trách nhiệm quản lý Nhà nước của các bộ, ngành, UBND, cơ quan chuyên môn các cấp và tổ chức, cá nhân liên quan như quy định tại các Điều 125, 126, 127 và Điều 128 của Dự thảo Luật.
Về công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực bảo vệ môi trường
Về chính sách thuế, phí về bảo vệ môi trường: Nghiên cứu tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội và thống nhất quản lý về tài chính, ngân sách, Dự thảo Luật đã quy định mang tính nguyên tắc xác định đối tượng chịu thuế, phí bảo vệ môi trường tại Điều 137. Việc ban hành, tổ chức thực hiện các quy định này theo pháp luật về thuế, phí, lệ phí. Giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính đánh giá mức độ gây ô nhiễm môi trường, hiệu ứng nhà kính của chất thải hoặc sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường để đề xuất danh mục chịu thuế, phí bảo vệ môi trường; biểu khung, mức thuế, phí và phương pháp tính.
Về chi trả dịch vụ hệ sinh thái: Dự thảo Luật đã chỉnh lý để làm rõ nội hàm của quy định chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên; quy định việc chi trả dịch vụ môi trường rừng được thực hiện theo quy định của pháp luật lâm nghiệp để tránh chồng chéo; quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên chỉ đối với dịch vụ của các hệ sinh thái đất ngập nước, hệ sinh thái biển, hệ sinh thái núi đá, hang động và công viên địa chất như Điều 139 quy định.
Về thị trường phát thải, tổ chức và phát triển thị trường các-bon: Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, chính sách về trao đổi, mua, bán phát thải giữa các tổ chức, cá nhân cần được tiếp tục cân nhắc, thí điểm trước khi chính thức Luật hóa để bảo đảm việc kiểm soát chặt chẽ trên thực tế, tránh tác động tiêu cực đến môi trường. Do vậy xin phép chưa quy định trong Luật lần này về thị trường phát thải đối với nước thải và khí thải nói chung, chỉ quy định về tổ chức và phát triển thị trường các-bon để thực hiện các cam kết quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính như tại Điều 140.
Về nguồn lực cho bảo vệ môi trường: Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Dự thảo Luật đã không quy định tỷ lệ cụ thể mức chi, nội dung chi thường xuyên cho hoạt động bảo vệ môi trường, chi đầu tư phát triển bảo vệ môi trường; quy định “Ngân sách Nhà nước có mục chi riêng cho hoạt động bảo vệ môi trường và bố trí tăng dần trong từng giai đoạn, phù hợp với khả năng ngân sách và yêu cầu, nhiệm vụ về bảo vệ môi trường” như tại khoản 1, khoản 3 Điều 149. Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn việc thống kê, theo dõi và công bố nguồn lực chi cho bảo vệ môi trường từ Nhà nước, xã hội như tại khoản 6 Điều 149.
Về kiểm toán môi trường: Nội dung kiểm toán môi trường trong Luật này được quy định để khuyến khích cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tự thực hiện hoặc thông qua đơn vị dịch vụ thực hiện kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng lực quản lý môi trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận biết và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được hiệu quả hơn; bổ sung trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước thực hiện nội dung kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan như tại khoản 4 Điều 75 Dự thảo Luật.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết: Ngoài những vấn đề nêu trên, Dự thảo Luật đã nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý nhiều nội dung cụ thể tại các điều, khoản mà các đại biểu Quốc hội quan tâm như về giải thích từ ngữ; những hành vi bị nghiêm cấm; quy chuẩn kỹ thuật về môi trường; về trách nhiệm quản lý Nhà nước của Chính phủ, các bộ, ngành và UBND các cấp; quyền và trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường; về tính khả thi, thống nhất trong hệ thống pháp luật; về văn phong, bố cục, kỹ thuật văn bản… cũng đã được rà soát, chỉnh lý, bổ sung. Với báo cáo tóm tắt những vấn đề lớn giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến./.