Áp lực lạm phát cao
Năm 2023, nền kinh tế thế giới được dự báo có không ít khó khăn do một số quốc gia và khu vực kinh tế lớn đứng trước nguy cơ suy thoái.
Thứ nhất, lạm phát năm 2022 của thế giới tăng rất cao, lập đỉnh sau 40 năm ở Mỹ, Anh, Liên minh châu Âu (EU). Năm 2023 lạm phát của nền kinh tế thế giới dù có xu hướng hạ nhiệt nhưng được dự báo vẫn ở mức cao khoảng 6,5%, từ đó tác động rất lớn đến tới giá cả hàng hóa và tình hình lạm phát trong năm 2023 của Việt Nam. Bởi Việt Nam là quốc gia có độ mở cửa hội nhập sâu rộng, toàn diện với thế giới, và có gần 40% nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nhập khẩu, nên khả năng nhập khẩu lạm phát thông qua nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu đầu vào rất lớn.
Thứ hai, ngân hàng Trung ương các nước trên thế giới đã có hơn 340 lần tăng lãi suất điều hành. Đặc biệt trong năm 2022 FED đã nâng lãi suất lên 5%-5,25%, do vậy, lãi suất trên thế giới tăng nhanh. Để đảm bảo tính cạnh tranh trong thu hút đầu tư quốc tế, NHNN Việt Nam cũng đã 2 lần tăng lãi suất điều hành gây áp lực lên chi phí vốn, tạo sự trì trệ trong sản xuất và tăng áp lực lạm phát.
Thứ ba, do xung đột Ukraine tiếp tục kéo dài, Mỹ và phương Tây đẩy mạnh chính sách trừng phạt, áp trần giá dầu, trần giá khí đốt với Nga. Việc Nga ngừng bán dầu, khí đốt với các quốc gia không thân thiện cùng với OPEC tiếp tục cắt giảm sản lượng có thể đẩy giá dầu và khí đốt, nguyên vật liệu trong năm 2023 tăng cao. Hơn nữa, do việc bao vây, cấm vận, nước Nga đã không cho phép phương tiện giao thông của các nước không thân thiện đi qua lãnh thổ, làm cho nhiều chuỗi cung ứng đứt gãy, chi phí vận tải, logicstic tăng cao và làm cho nguồn cung ứng gặp khó khăn, chi phí sản xuất cao. Do đó, tình hình sản xuất kinh doanh trong nước cũng gặp nhiều khó khăn trong phục hồi và tăng trưởng.
Thứ tư, do ảnh hưởng của yếu tố đầu vào và lạm phát, các tổ chức quốc tế dự báo năm 2023 nền kinh tế thế giới chỉ tăng trưởng khoảng 2,2%-2,5% (so với mức 3,1% của năm 2022). Lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong nhiều thập kỷ, buộc các chính phủ phải thắt chặt chính sách tiền tệ. Lạm phát cùng với việc các chính phủ cắt giảm hỗ trợ tài chính liên quan đến đại dịch Covid-19 khiến nhiều hộ gia đình siết chặt chi tiêu. Việc nhập khẩu và tiêu thụ hàng hóa giảm sút sẽ tạo áp lực lớn đến các DN sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam. Xuất khẩu khó khăn, lượng ngoại tệ thu về giảm sút sẽ tạo áp lực lên tỷ giá và lạm phát.
Thứ năm, việc Chính phủ Trung Quốc dỡ bỏ lệnh phong tỏa để phòng chống đại dịch Covid-19 có thể làm sản xuất tăng trưởng, tăng sức ép về giá cả xăng dầu, nguyên liệu đầu vào cho sản xuất của thế giới và gia tăng áp lực lạm phát.
Thứ sáu, trong năm 2022 chỉ số VN-Index của thị trường chứng khoán Việt Nam đã có sự giảm sút mạnh, giảm 33,68% so với cuối năm 2021; thị trường trái phiếu DN phát hành riêng lẻ cũng sụt giảm hơn 28,5% so với cùng kỳ 2021 đang gây khó khăn cho nguồn cung vốn cho sản xuất và tạo áp lực tăng lãi suất vay nợ, tăng áp lực lạm phát.
Thứ bảy, năm 2023 tác động của lạm phát của Việt Nam sẽ bộc lộ rõ hơn do tác động vòng 2, vòng 3 bởi độ trễ của lượng tiền tệ được đưa vào thị trường trong các năm trước. Lạm phát các tháng cuối năm 2022 so với tháng 12/2021 và cùng kỳ năm 2021 tăng cao đến 4,55% và 4,52% đang cho thấy khả năng lạm phát tăng cao trong năm 2023.
Hai kịch bản lạm phát
Mặc dù áp lực lạm phát năm 2023 lớn, nhưng vẫn có một số nhân tố có thể giảm áp lực năm 2023 của nền kinh tế Việt Nam. Trước hết, Việt Nam đã thích ứng với trạng thái vừa chung sống với dịch bệnh, vừa đẩy mạnh sản xuất, đã phục hồi mạnh mẽ trong năm 2022 và sẽ tiếp tục thích ứng với các biến động kinh tế, xã hội trong năm 2023.
Bên cạnh đó, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua có xu hướng tăng cao. Để hỗ trợ các DN trong nền kinh tế hồi phục và phát triển, NHNN đã có biện pháp cung ứng vốn giá rẻ với thời gian tương đối dài cho các ngân hàng thương mại, cùng với các yêu cầu để các ngân hàng thương mại cắt giảm chi phí nhằm ổn định và hạ thấp mặt bằng lãi suất của nền kinh tế.
Cùng với đó, trong năm 2022, Việt Nam đã hoàn thiện cơ chế chính sách và cơ cấu bộ máy của thị trường chứng khoán và các quy định pháp lý cho hoạt động phát hành trái phiếu riêng lẻ và phát hành trái phiếu DN ra thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu cung cấp vốn vay trung và dài
hạn.
Dự báo trong năm 2023 nếu tình hình kinh tế-xã hội của thế giới vẫn diễn biến phức tạp, lạm phát vẫn cao, giá xăng dầu, nguyên vật liệu tăng cao, kinh tế thế giới trì trệ hay suy thoái, tăng trưởng chậm, thương mại quốc tế giảm sút, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng ở mức 6,2% - 6,7% thì khả năng lạm phát cả năm sẽ trong khoảng 3,3% - 3,7%.
Nếu tình hình kinh tế-xã hội của thế giới được cải thiện hoặc ổn định, giá xăng dầu, nguyên vật liệu ổn định, kinh tế thế giới phục hồi tốt, doanh nghiệp Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội, nắm bắt và thích ứng với các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết và những thay đổi lớn trong nền kinh tế thế giới, Quốc hội và Chính phủ có các biện pháp chỉ đạo kiên quyết, linh hoạt và thích hợp, tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt mức 6,8%-7,5% thì khả năng lạm phát cả năm có thể sẽ ở mức là 3,8% - 4,1%.
Tránh tình trạng lạm phát tâm lý
Để có thể giữ tốc độ tăng chỉ số CPI ở mức dưới 4,5% như chỉ tiêu của Quốc hội và Chính phủ đề ra, tìm cách ổn định thị trường tài chính tiền tệ, tiếp tục hạ thấp tỷ lệ lạm phát cần phải tiếp tục giữ vững ổn định giá trị VND, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn, tạo nền tảng cho phục hồi và phát triển bền vững của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế năm 2022 đã đạt mức 8,02% dù nhiều chuỗi cung ứng chưa hồi phục và nhiều ngành nghề dịch vụ vẫn chưa hoạt động trở lại. Tăng trưởng kinh tế sẽ là nhân tố hỗ trợ đắc lực cho việc giữ ổn định nền kinh tế, giúp tránh được tâm lý hoài nghi của các DN và các tầng lớp dân cư, tránh tình trạng “lạm phát do tâm lý”.
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục theo dõi sát tình hình biến động của nền kinh tế thế giới và thị trường tài chính – tiền tệ, chủ động, thực hiện điều hành linh hoạt lãi suất, công cụ thị trường mở, tích cực quản lý và điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, từng bước ổn định và nâng cao giá trị đồng Việt Nam, góp phần kìm giữ lạm phát cơ bản để làm cơ sở cho việc kìm giữ chỉ số giá tiêu dùng bình quân (CPI).
Phía Bộ Tài chính cần xem xét kỹ lưỡng nhu cầu và khả năng hấp thụ vốn
của nền kinh tế, tính toán cẩn trọng mức độ, thời hạn, hình thức, phương thức huy động vay nợ công để vừa đảm bảo kích thích nền kinh tế hồi phục và phát triển nhanh chóng, vừa đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay, đảm bảo khả năng trả nợ vay và sự ổn định và phát triển trong dài hạn của nền kinh tế.
Đối với Bộ Công thương cần tiếp tục thường xuyên có các cuộc gặp gỡ với các Thương vụ Đại sứ quán Việt Nam tại các nước và thực hiện kết nối các DN xuất khẩu với thị trường các nước đang góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu cho các ngành sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ giúp các DN giảm chi phí, đẩy mạnh hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu.
Tổng cục quản lý thị trường (Bộ Công thương) và Cục quản lý giá (Bộ Tài chính) cần tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động giá cả, thị trường, tránh tình trạng “té nước theo mưa” của một số chủ thể, nhất là với các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, hàng hóa, thiết bị, vật tư y tế phòng chống dịch bệnh Covid-19, đảm bảo ổn định mặt bằng giá cả. Đặc biệt, cần tiếp tục có sự theo dõi chặt chẽ của Chính phủ, Bộ Tài chính, NHNN về sự biến động trên cả thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán, tránh các tình huống có thể ảnh hưởng xấu đến thị trường tài chính tiền tệ và lạm phát.
Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về điều hành giá, thực hiện tốt các quy định về công khai, minh bạch các thông tin về giá. Đặc biệt là đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, các mặt hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá, tránh lạm phát kỳ vọng, tránh các tin đồn thất thiệt gây hoang mang tâm lý, ảnh hưởng xấu tới mặt bằng giá cả của một số mặt hàng và mặt bằng giá cả của nền kinh tế.
Đồng thời, cần có các cơ chế theo dõi, quản lý giá thường xuyên giữa các cơ quan có liên quan và có chế tài xử lý nghiêm khắc để các chỉ đạo của Chính phủ, các bộ, ngành phải được DN và các tầng lớp dân cư thực thi một cách toàn diện và nghiêm túc.
Song song với đó, cần kiểm tra chặt chẽ các yếu tố hình thành giá đối với các mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá, mặt hàng hóa, dịch vụ do nhà nước định giá, tránh việc điều chỉnh giá, tăng giá bất hợp lý.
Nền kinh tế Việt Nam đã bắt đầu thích ứng với trạng thái chung sống với đại dịch Covid-19, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, đẩy nhanh việc xây dựng, điều chỉnh các định mức kinh tế - kỹ thuật để làm cơ sở xác định giá hàng hóa, dịch vụ cho các loại hình của dịch vụ y tế, giáo dục, xã hội theo đúng lịch trình tính đúng, tính đủ chi phí thực hiện vào giá và lộ trình cổ phần hóa các đơn vị sự nghiệp công lập.
Tiếp tục đẩy mạnh công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19 với các biến thể mới có thể bùng phát trở lại và phòng ngừa các dịch bệnh khác sẽ là tiền đề tốt cho ổn định sản xuất, ổn định thị trường, bình ổn giá cả các mặt hàng.