Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Các yếu tố nguy cơ của bệnh suy tĩnh mạch

PGS .TS. BS Nguyễn Hoài Nam
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Các bệnh tĩnh mạch là một vấn đề quan trọng cho y học và xã hội, do bệnh ảnh hưởng đến nhiều người, đến sức lao động của xã hội. Chi phí nhập viện và điều trị của bệnh này cũng rất cao.

Những yếu tố gây bệnh
Người ta đã tính rằng, 35% số người làm việc và hơn 50% số người nghỉ hưu ở châu Âu mắc bệnh tĩnh mạch (Journal of International Medicine). Trong đó, 1% số nam giới và 4,5% nữ giới bị suy tĩnh mạch chi dưới.

Di truyền là mẫu số chung: Một số người về di truyền có thể mắc bệnh này. Điều này hiện nay đã được biết là do thay đổi về enzyme trong các mô liên kết. Nếu tính luôn các biến chứng của bệnh giãn tĩnh mạch và giãn tĩnh mạch thứ phát do tiến trình viêm tĩnh mạch (huyết khối), thì cần mở rộng danh mục các yếu tố nguy cơ bao gồm phụ nữ cho con bú, phẫu thuật, khiếm khuyết gia đình và thay đổi trong các thành phần của tiến trình đông máu.

Nữ giới dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố trên hơn nam giới (tỷ lệ giữa nam: nữ là 1:2 đến 1:3). Sự khác biệt này có thể do cá hormone (estrogen, progesterone), thai nghén, đứng lâu, khối lượng cơ thấp hoặc sử dụng giày không thích hợp.

Phụ nữ có nguy cơ đứng lâu khi làm việc (các xí nghiệp dệt, công nghiệp chế biến, công nghiệp nhuộm…) nguy cơ còn tăng lên nếu thêm vào đó các công việc nội trợ.

Tăng trọng là một yếu tố nguy cơ vì lực tác động từ phía trước để hút máu về bị giảm (cơ hoành ở vị trí hít vào) và các dòng trào ngược ly tâm phát sinh từ áp lực ở ruột lên các tĩnh mạch hông: Không có áp lực nào ở ổ bụng ảnh hưởng trực tiếp đến chỗ nối tĩnh mạch hiển - đùi vì tĩnh mạch chủ dưới không có valve và các tĩnh mạch hông có rất ít hoặc không có valve. Những người béo phì thường áp dụng chế độ ăn kiêng và ăn rất ít chất xơ. Điều này dẫn đến táo bón và hồi lưu do áp lực khung chậu.

Thời kỳ thai nghén bao gồm một cơ chế dẫn tới sự thay đổi trương lực tĩnh mạch do progesterone và tử cung mang thai chèn ép các tĩnh mạch hông và tĩnh mạch khung chậu. Mặc dù chưa chứng minh được là có mối liên quan trực tiếp giữa số lần mang thai và các tĩnh mạch giãn, những khoảng cách giữa 2 lần mang thai càng ngắn thì yếu tố nguy cơ càng tăng.

Chủng tộc có ảnh hưởng ít nhiều đến bệnh này trừ khi chúng được kết hợp với sự phát triển về kinh tế (các nước phát triển) và thay đổi cách sống.

Thuốc ngừa thai cũng là một yếu tố nguy cơ như thai nghén.

Phẫu thuật có thể gây biến chứng (huyết khối tĩnh mạch và viêm tĩnh mạch huyết khối). Tuy vậy, gần đây, tầm quan trọng của yếu tố nguy cơ này đã giảm bớt. Nguyên nhân có thể do sự gia tăng phẫu thuật bệnh nhân ngoại trú hoặc dự phòng heparin. Thay đổi các yếu tố đông máu, thường là do di truyền có thể làm gia tăng các yếu tố nguy cơ (thiếu antithrombin III, protein C, protein S, thay đổi chức năng tiểu cầu…).

Về thống kê, chưa có những kết luận hiển nhiên là huyết khối tĩnh mạch sâu làm gia tăng hay làm giảm các yếu tố nguy cơ hoặc phái nào dễ bị mắc bệnh hơn. Mặc dù 1/3 các trường hợp huyết khối có thể được chẩn đoán trên lâm sàng, những tiến bộ trong các phương pháp cận lâm sàng trong thập niên vừa qua (siêu âm Doppler, siêu âm nhịp, chụp nhấp nháy tĩnh mạch) đã góp phần vào việc chẩn đoán một số bệnh trong 2/3 trường hợp còn lại chưa được chẩn đoán đúng mức.

Các phương pháp điều trị, can thiệp

Can thiệp với laser nội tĩnh mạch: Phương pháp ít xâm lấn, có khả năng loại bỏ hầu hết các triệu chứng bệnh giãn tĩnh mạch như đau nhức, nặng nề, nổi gân xanh chỉ với thủ thuật đơn giản. Bệnh nhân sẽ không có cảm giác đau đớn, xuống sức sau ca mổ bởi trước đây, khi điều trị suy tĩnh mạch chi dưới bệnh nhân phải phẫu thuật rất phức tạp, mất nhiều máu và gây đau đớn, nhưng nguy cơ tái phát rất cao. Còn can thiệp nội mạch sẽ rất nhẹ nhàng, có thể xuất viện sau 1 ngày, không gây biến chứng và gần như không tái phát.

Chích xơ tĩnh mạch: Chất chích xơ khi vào lòng mạch sẽ tạo thành một phản ứng viêm, tác động vào thành mạch giống như một chất keo dán dính, làm phá hủy tĩnh mạch, có tác dụng tại chỗ. Chất gây xơ không đi đến vị trí khác mà chỉ khu trú ở vị trí muốn điều trị, không đi về tim làm nghẽn mạch máu ở tim. Điều trị bằng gây xơ tĩnh mạch an toàn, không có biến chứng lâu dài. Biến chứng tại chỗ là đau, viêm tĩnh mạch, viêm mô dưới da.

Loại bỏ tĩnh mạch suy bằng năng lượng sóng cao tần: Phương pháp hủy mô bằng nhiệt gây ra do sự ma sát của các ion trong mô dưới tác động của dòng điện xoay chiều có tần số nằm trong khoảng sóng âm thanh. Dòng điện từ máy được truyền vào mô cơ thể qua một điện cực dạng kim, dòng sóng radio được truyền vào đầu kim và sinh nhiệt. Nhiệt do ma sát làm khô mô xung quanh dẫn đến làm mất nước trong tế bào và hoại tử đông phần mô cần hủy.

Ngoài ra còn một số phương pháp khác, trong đó có điều trị nội khoa, bác sĩ sẽ chỉ định tùy từng bệnh nhân cụ thể.