Nếu biết cách dùng thảo dược cùng với việc điều chỉnh cách ăn uống và lối sống, chúng ta có thể phòng bệnh đau khớp hoặc giảm đau nhức mà không phải tốn kém nhiều.
Phòng bệnh bằng ăn uống
Theo y học cổ truyền, đau khớp được gọi là chứng tý. Tuỳ theo nguyên nhân và triệu chứng do các thể phong tý, hàn tý, nhiệt tý hoặc thấp tý mà dùng thuốc thích hợp. Thông thường là bệnh cấp tính và cũng có khi tự khỏi, nhưng nếu không điều trị kịp thời, bệnh có thể chuyển sang mạn tính dẫn đến thoái hoá xương khớp.
Y học cổ truyền khuyên nên ăn uống phòng bệnh trước khi dùng thuốc. Còn theo các chuyên gia khớp thì không nên ăn nhiều thịt đỏ, giảm chất béo, đường, bột, ăn nhiều cá chứa chất béo omega-3, nhiều rau cải và trái cây có màu sậm. Nếu có dùng thuốc thì nên dùng ngay các loại thảo dược thiên nhiên và cách dễ nhất là sắc uống hoặc pha chế như trà, vì các nhóm hoạt chất chiết được từ các thảo dược này có tác dụng giảm đau kháng viêm rất tốt mà không gây tác dụng phụ.
Lá lốt ăn như rau có thể giúp giảm đau gân cốt, chữa tê thấp, đau lưng
Cỏ xước (Achyranthes aspera): còn gọi là ngưu tất nam, dùng cả cây và rễ, cây có chứa nhiều saponin chống viêm rất tốt. Mỗi ngày dùng 10 - 16g dạng nước sắc chữa sưng khớp gối, đau nhức gân cốt, đau lưng.
Lá lốt (Piper lolot): dùng lá làm rau ăn và làm thuốc chữa tê thấp, đau lưng, tay chân tê dại, ngày 8 - 12g, sắc riêng hoặc sắc chung với dây đau xương, cốt khí củ, rễ cỏ xước đồng lượng. Có thể nấu nước ngâm tay chân cho người hay bị đổ mồ hôi tay chân.
Thổ phục linh (Smilax glabra): dùng thân, rễ phơi khô, có tác dụng lợi gân cốt, kiện tỳ, giải độc, tiêu phù. Mỗi ngày dùng 10 - 12g sắc uống hoặc phối hợp thành bài thuốc gồm thổ phục linh 20g, thiên niên kiện, đương quy đều 8g, bạch chỉ 6g, cốt toái bổ 10g, sắc uống hoặc ngâm rượu uống chữa phong thấp, gân xương đau nhức, tê buốt tay chân.
Dây đau xương (Tinospora tomentosa): dùng thân dây, 8 - 12g trong ngày, sắc uống chữa tê thấp và đau nhức gân cốt, bồi bổ sức khoẻ. Có thể giã lá tươi trộn với rượu đắp lên các chỗ sưng đau.
Ké đầu ngựa (Xanthium strumarium): dùng quả chín vàng khô, tác dụng tán phong trừ thấp, ngày dùng 6 - 12g dạng thuốc sắc chữa phong thấp, tay chân co rút, các khớp sưng đau.
Thiên niên kiện (Homalomena aromatica): thân rễ có mùi thơm, ngày dùng 10 - 12g, sắc chung với các vị khác hoặc ở dạng ngâm rượu, tác dụng bổ gân cốt, chữa tay chân tê mỏi, đau nhức các xương khớp, người già nhức xương, ê ẩm mình mẩy.
Ngũ gia bì (Acanthopanax spinosum): dùng vỏ thân hay vỏ rễ, dạng sắc hoặc ngâm rượu, chữa phong thấp, làm mạnh gân cốt, tăng lực.