Theo đó, ở kịch bản tăng trưởng thấp Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (chỉ số ICOR) toàn nền kinh tế duy trì ở mức cao như hiện nay (không có cải thiện), khoảng 5,6 - 5,7; Tỷ lệ tiết kiệm nội địa (tiết kiệm/GDP) bình quân: 30,35%; Vốn FDI: tăng trưởng 0 - 3%/năm; Vốn vay của khu vực tư nhân: tăng 5%/năm; Lạm phát: 6%/năm; Tăng trưởng tín dụng bình quân: 11,3 - 15,7%/năm. Kịch bản tăng trưởng vừa phải ICOR toàn nền kinh tế được cải thiện nhờ chặt chẽ hơn trong đầu tư công, tỷ lệ trung bình khoảng 5,4. Tỷ lệ tiết kiệm nội địa (tiết kiệm/GDP) bình quân: 30,35%; Vốn FDI: tăng trưởng 4 - 6%/năm; Vốn vay của khu vực tư nhân: tăng 10%/năm; Lạm phát: 5%/năm; Tăng trưởng tín dụng bình quân: 13,3 - 18,7%/năm. Kịch bản tăng trưởng cao, ICOR toàn nền kinh tế được cải thiện so với hiện nay, đưa về mức trước năm 2010, khoảng 5,2 (bằng giai đoạn 2000 - 2005); Tỷ lệ tiết kiệm nội địa (tiết kiệm/GDP) bình quân: 30,35%; Vốn FDI: tăng trưởng 7 - 10%/năm; Vốn vay của khu vực tư nhân: tăng 15%/năm; Lạm phát: 6%/năm. Và với kịch bản này, nền kinh tế tăng trưởng bình quân trong khoảng 5,06 - 5,52%/năm trong giai đoạn 2016 - 2020. Điều này đồng nghĩa với việc trong giai đoạn 2016 - 2020, mức tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm của Việt Nam khó có khả năng vượt mức 6% do động lực tăng trưởng không có nhiều cải thiện. "Nếu nền kinh tế không nhận được động lực tăng trưởng mới từ sự cải thiện yếu tố năng suất lao động tổng hợp, trong khi đó các nguồn lực cơ bản là vốn và lao động không có nhiều khả năng cải thiện đột biến, sẽ dẫn đến nhiều khả năng tăng trưởng khó thoát khỏi khuynh hướng suy giảm dài hạn" - báo cáo nêu. VEPR đưa ra quan điểm: Tín dụng tăng trưởng khoảng 12 - 15% là mức bảo đảm để lạm phát duy trì trong mức mục tiêu 6%. Trong khi mức tăng trưởng tín dụng khoảng 20%, nguy cơ lạm phát tăng trở lại (vượt 10%) là cao, tạo ra nguy cơ phá vỡ các cân bằng vĩ mô. VEPR đưa ra ý kiến, để cải thiện tốc độ tăng trưởng và chất lượng của nền kinh tế, chắc chắn cần phải có quyết tâm cải cách thực sự mạnh mẽ quyết liệt nhằm tăng năng suất của toàn bộ nền kinh tế, tái cơ cấu nguồn lực theo hướng chất lương cao hơn. Cải cách thể chế kinh tế, hành chính có ý nghĩa quyết định. Ngoài ra, việc cải thiện nguồn nhân lực cho nền kinh tế và mở rộng thị trường xuất khẩu với mô hình liên kết quốc tế theo kiểu mới. Chỉ với những nỗ lực cải cách với cam kết cao, Việt Nam mới có hy vọng kiểm soát được mức tăng trưởng khoảng trên 6% (trong điều kiện bối cảnh quốc tế thuận lợi). "Việc đặt mục tiêu tăng trưởng bình quân 7% trong giai đoạn 2016 - 2020 khó khả thi. Nói cách khác, giai đoạn tăng trưởng cao như trong thập niên 1990 và đầu những năm 2000 (bình quân 7,5%/năm) sẽ không còn cơ hội lặp lại trong thời gian tới" - nhóm nghiên cứu của báo cáo kết luận.