Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Cần quyết sách mới cho ngành xi măng

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Với việc nghiên cứu kiến nghị về giảm thuế xuất khẩu đối với mặt hàng clinker được nhiều chuyên gia kỳ vọng sẽ là bước đệm khuyến khích thúc đẩy phát triển ngành xi măng khi đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong nước và thế giới.

Tăng khả năng cạnh tranh

Theo báo cáo của Hiệp hội Xi măng Việt Nam, năm 2024, ngành xi măng xuất khẩu hơn 29,94 triệu tấn xi măng và clinker, thu về trên 1,15 tỷ USD, giảm hơn 4% về lượng và giảm gần 14% về kim ngạch so với năm 2023. Riêng tháng 12/2024 xuất khẩu xi măng và clinker tăng 4% về lượng và tăng 3,9% kim ngạch so với tháng 11 trước đó, đạt gần 2,27 triệu tấn, tương đương trên 86,04 triệu USD, giá trung bình 37,9 USD/tấn.

Dây chuyền sản xuất xi măng tại Công ty CP Xi măng Thăng Long, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Danh Lam
Dây chuyền sản xuất xi măng tại Công ty CP Xi măng Thăng Long, tỉnh Quảng Ninh. Ảnh: Danh Lam

Trong năm 2024, xuất khẩu xi măng clinker sang thị trường Philippines giảm khoảng 0,6% về lượng, giảm khoảng 11% về kim ngạch và giảm 10,5% về giá so với năm 2023, là thị trường lớn nhất tiêu thụ xi măng clinker của Việt Nam, chiếm 27% trong tổng lượng và chiếm 28% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xi măng và clinker của cả nước, đạt hơn 8 triệu tấn, tương đương 319,09 triệu USD, giá trung bình 39,9 USD/tấn.

Xi măng clinker xuất khẩu sang Bangladesh - thị trường lớn thứ 2 đạt 5,49 triệu tấn, trị giá hơn 175,13 triệu USD, giá trung bình 31,9 USD/tấn, chiếm 18,5% trong tổng lượng và chiếm 15,4% trong tổng kim ngạch. Tiếp theo là thị trường Malaysia chiếm 5,7% trong tổng lượng và chiếm 5% trong tổng kim ngạch, đạt 1,68 triệu tấn, tương đương 57,19 triệu USD, giá 34 USD/tấn.

Bước sang năm 2025, tình hình xuất khẩu tiếp tục giảm sút, khi trong tháng 1/2025 đạt gần 2,18 triệu tấn, thu về hơn 76,41 triệu USD, giảm lần lượt 32% về lượng và giảm 36% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Cụ thể, xuất khẩu xi măng khoảng 1,43 triệu tấn; xuất khẩu clinker đạt 750.172 tấn, cùng giảm 4% so với tháng 12/2024. Do thời điểm tháng 1/2025 trùng với kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, khiến các hoạt động logistics, vận chuyển, bốc xếp tại cảng gián đoạn ảnh hưởng tới sản lượng xuất khẩu.

Trước những diễn biến trên, Thủ tướng Chỉnh phủ đã có Văn bản số 1297/VPCP-CN giao Bộ Tài chính nghiên cứu về việc giảm thuế xuất khẩu đối với mặt hàng clinker xi măng khi hiện nay, mức thuế suất xuất khẩu clinker xi măng đang ở mức 10% theo Nghị định 101/2021/NĐ-CP, gây áp lực lớn lên DN trong bối cảnh tiêu thụ trong nước suy giảm, xuất khẩu gặp khó khăn do chi phí tăng cao và cạnh tranh gay gắt.

Các chuyên gia trong ngành nhìn nhận, từ năm 2022, lượng clinker xuất khẩu sụt giảm lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng về kinh doanh đối với các DN sản xuất. Nguyên nhân phần nhiều do thuế xuất khẩu tăng từ 5% lên 10% từ ngày 1/1/2023, làm cho giá clinker kém cạnh tranh trên thị trường quốc tế so với các nước khác như Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ... khi các nước này đều không đánh thuế xuất khẩu clinker, vì đây là sản phẩm đã chế biến sâu.

Đồng thời, với việc thuế xuất khẩu tăng 10% và không được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của clanke xuất khẩu (10%) dẫn đến giá clinker của Việt Nam mất lợi thế đến 20% so với giá của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Hệ quả là nhiều DN xi măng không thể xuất khẩu được sản phẩm, trong khi đã đầu tư vốn rất lớn vào dự án sản xuất, nếu không trả được nợ vốn vay, cùng với lãi vay cao sẽ bị siết nợ và sẽ phải đối mặt với áp lực bán siết nợ.

Vì vậy, giảm thuế xuất khẩu có thể giúp giảm chi phí đầu vào cho DN, tạo động lực thúc đẩy xuất khẩu và hỗ trợ ngành xi măng vượt qua giai đoạn khó khăn. Đây là giải pháp quan trọng để giữ vững năng lực sản xuất của ngành và duy trì sự ổn định của thị trường vật liệu xây dựng. Việc điều chỉnh chính sách thuế lần này được kỳ vọng sẽ giúp DN xi măng Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định ngành công nghiệp quan trọng này trong dài hạn.

Doanh nghiệp tiết giảm chi phí

Với những diễn biến nêu trên, các DN trong ngành đã thực hiện nhiều giải pháp trong quản lý và hoạt động nhằm tiết giảm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, giảm giá thành sản phẩm khi giá nguyên liệu đầu vào giảm cũng như tận dụng các nguồn nguyên liệu giá rẻ từ phế thải để giảm chi phí sản xuất. Như Công ty CP Xi măng Vicem Hoàng Mai ghi nhận doanh thu thuần gần 506 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, do giá vốn tăng mạnh hơn khiến lợi nhuận sau thuế quý IV/2024 lỗ 15,9 tỷ đồng, tăng 10,6 tỷ đồng so với năm 2023. Cho dù vậy, DN vẫn cho thấy nhiều điểm sáng, trong đó về nguyên liệu đầu vào, giá than đã giảm từ 75 đồng/kcal xuống còn 507 đồng/kcal làm lợi nhuận tăng 13,9 tỷ đồng.

Tuy nhiên, với giá điện bình quân là 1.766 đồng/KWH, tăng 96 đồng/KWH so với cùng kỳ (EVN tăng giá điện 4,8% từ ngày 11/10/2024) làm lợi nhuận giảm 3,2 tỷ đồng. Để tiết kiệm chi phí, từ tháng 6/2024, DN đã bắt đầu sử dụng nguyên liệu thay thế (vỏ cây, dăm gỗ, chất thải rắn thông thường có khả năng tái sử dụng, tái chế) thay thế một phần than cám trong sản xuất clinker làm lợi nhuận tăng 29,3 tỷ đồng.

Có thể thấy, để duy trì sản xuất và ổn định thị trường, các DN buộc phải tìm kiếm giải pháp thích ứng, từ tối ưu hóa chi phí, đa dạng hóa thị trường đến đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh; rà soát cắt giảm chi phí sản xuất đối với nguyên liệu, nhiên liệu than, dầu, khí đốt và điện. Cơ cấu lại nguồn vốn, tiết giảm chi phí để bảo đảm dòng tiền trả nợ ngân hàng và chi phí nguyên, nhiêu liệu đầu vào, nhân công và các chi phí khác trong sản xuất.

Đấy cũng là những giải pháp mà các DN khác trong ngành đang áp dụng để duy trì và ổn định sản xuất - kinh doanh, bảo đảm thu nhập cho người lao động. Như xi măng Yên Bình, trong quý IV/2024 thúc đẩy sản xuất, tiết giảm chi phí, cùng với đó, giá nguyên vật liệu đầu vào chính như than, thạch cao, cước vận chuyển đều giảm và chi phí sửa chữa lớn cũng giảm so với cùng kỳ nên giá thành sản xuất sản phẩm giảm, góp phần đưa lợi nhuận tăng. Hay Xi măng Sài Sơn, do nhà máy hoạt động ổn định, chi phí lãi vay giảm bởi DN đã trả vốn trung hạn, đồng thời với tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm giá để bán hết sản phẩm, tăng độ phủ trên thị trường khiến lợi nhuận của Xi măng Sài Sơn tăng.

Thạc sĩ Phạm Ngọc Trung nhìn nhận, việc mất cân đối cung - cầu xi măng xuất phát từ nhiều nguyên do, trong đó phụ thuộc vào các yếu tố đầu vào như tài nguyên khoáng sản, công nghệ, năng lượng và vốn. Việc cân đối còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng dư thừa cũng như không khai thác hết năng lực sản xuất của DN trong ngành. Vì vậy, cần có các giải pháp tăng lượng tiêu thụ xi măng ở thị trường nội địa như nghiên cứu sử dụng tối đa gia cố đất bằng xi măng trong xây dựng đường bộ tại khu vực đầu cầu, cống, các vị trí có chiều cao đắp lớn, đất yếu... Ưu tiên đầu tư đường bê tông xi măng trong phát triển đường giao thông nông thôn miền núi, khu vực địa hình đặc thù như dốc dọc lớn hay những nơi thường xuyên ngập nước.

Ngoài ra, cần tiếp tục đẩy mạnh đầu tư công tập trung vào phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nông thôn, công trình biển, các DN liên quan vật liệu xây dựng, xây dựng sẽ là bên hưởng lợi trực tiếp. Cùng với chủ trương đầu tư xây dựng 1 triệu căn nhà ở xã hội tiếp tục đẩy mạnh và các chương trình, dự án xây dựng nhà ở khác sẽ giúp tăng cường tiêu thụ xi măng trong nước.

 

Theo Hiệp hội Xi măng Việt Nam, các rào cản thương mại và chính sách bảo hộ từ một số thị trường nhập khẩu vẫn là thách thức đối với DN Việt Nam. Việc xuất khẩu đang hướng tới một vài thị trường tiềm năng mới là tín hiệu tốt làm giảm sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất lớn tại những thị trường truyền thống.