KTĐT - Để có được doanh nhân yêu nước bằng tấm lòng thì cần làm thế nào cho họ thấy lợi ích của riêng họ và lợi ích quốc gia cùng song hành, tương đồng.
Xung quanh cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, chúng ta đã bàn nhiều đến vấn đề lòng yêu nước của người tiêu dùng trong nước. Nhưng làm thế nào để cuộc vận động này cũng khơi dậy lòng yêu nước từ phía các doanh nhân - chủ thể sản xuất ra những hàng hoá mang thương hiệu Việt?
Động viên doanh nhân phát huy lòng yêu nước bằng gì?
Có thể nói về lòng yêu nước của công dân mà không gặp nhiều trở ngại trong việc tìm kiếm các yếu tố tạo cảm hứng suy nghĩ. Bản thân khái niệm công dân và khái niệm quốc gia được xây dựng bằng các chất liệu cơ bản giống nhau: dòng máu, màu da, đất đai, ngôn ngữ, truyền thống văn hoá, lịch sử,… Thực ra cũng có công dân không có chung với các công dân khác những thứ đó, như trường hợp người được nhập tịch, nhưng loại công dân này không điển hình. Ở một góc nhìn, quốc gia và công dân được coi là hai mặt của cùng một giá trị.
Còn nói về lòng yêu nước của doanh nhân thì không đơn giản. Nhân vật trung tâm, theo giả thiết, là người xác định lợi nhuận cho bản thân là mục tiêu nghề nghiệp, đồng thời cũng là một trong các mục tiêu sống chủ yếu. Trong không ít trường hợp, lợi ích của doanh nhân mâu thuẫn với lợi ích quốc gia. Khi đó, muốn doanh nhân hy sinh lợi ích cá nhân, thì thông thường phải lồng sự hy sinh đó trong khuôn khổ một nghĩa vụ. Mà đã nói đến nghĩa vụ, thì không đặt vấn đề yêu hay không yêu nước nữa, bởi, suy cho cùng, lòng yêu nước chỉ thực sự có sức sống một khi xuất phát từ tiếng gọi của trái tim, từ ý thức tự nguyện.
Nói khác đi, để có được doanh nhân yêu nước bằng tấm lòng thì cần làm thế nào cho họ thấy lợi ích của riêng họ và lợi ích quốc gia cùng song hành, tương đồng.
Chẳng hạn, Nhà nước luôn mong muốn quảng bá rộng rãi thương hiệu đặc trưng cho quốc gia, bởi điều đó góp phần tôn vinh hình ảnh đất nước trong đời sống kinh tế và chính trị quốc tế; doanh nhân thì không hẳn lúc nào cũng có lợi ích đó. Hơn ai hết, người kinh doanh hiểu rằng hai mặt hàng cùng loại, cùng chất lượng và hình thức, nhưng có thể bán được với giá rất khác nhau một khi được gắn nhãn hiệu không giống nhau. Không phải người ta không mong muốn hàng hoá lưu thông dưới tên tuổi của mình. Tuy nhiên, nếu thấy chi phí thuê một thương hiệu nổi tiếng để bán hàng rẻ hơn nhiều so với chi phí đầu tư xây dựng, quảng bá thương hiệu riêng, thì hầu như chẳng ai đắn đo làm gì: cứ đứng trên vai người khổng lồ mà đi, vừa đỡ mất sức, vừa có lợi, chỉ có điên mới bỏ qua.
Bởi vậy, muốn doanh nhân nội chịu khó cưu mang thương hiệu còn nhỏ bé, ít được quen biết của riêng mình vượt qua được thời “niên thiếu” và trưởng thành, sánh vai được cùng các đại gia, thì nhất thiết phải dành cho họ sự hỗ trợ thiết thực, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Không gian người Việt dùng hàng Việt: không thể chỉ quanh quẩn ao làng
Vấn đề là trong trường hợp sự hỗ trợ đến từ Nhà nước thì phải coi chừng: trong khung cảnh kinh tế hội nhập, nếu nâng đỡ doanh nghiệp nội mà không khéo, nhà chức trách công quốc nội có thể bị kiện do vi phạm luật chơi về cạnh tranh.
Ở điểm này, cũng cần phải nói rằng phát triển chậm hơn người ta, thì phải chịu nhiều thiệt thòi. Ngày xưa, khi luật lệ quốc tế còn mập mờ, các nước lớn mà muốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp của nước mình trong cạnh tranh quốc tế, thì cứ tha hồ, làm gì cũng được, kể cả trợ giá sản phẩm nội, đánh thuế nặng thậm chí cấm nhập khẩu sản phẩm ngoại. Nhiều thương hiệu đã lớn lên từ chiếc nôi bảo hộ đó. Bây giờ, các thương hiệu sinh sau đẻ muộn của các nước mới nổi phải bon chen trong một khung pháp lý ngày càng chật hẹp, khắt khe. Thấy bất công rành rành, nhưng thôi thì vẫn phải chấp nhận.
Trong chừng mực nào đó, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” được khởi xướng trong năm vừa qua là một cách hỗ trợ doanh nghiệp nội phù hợp với các điều kiện cạnh tranh hiện tại. Tất nhiên, bản thân hàng Việt Nam phải có tính cạnh tranh cao, cả về chất lượng, mẫu mã, giá cả. Nhà chức trách công, về phần mình, có thể áp dụng nhiều biện pháp nâng đỡ mà người ta không bắt bẻ được. Bắt buộc dùng hàng nội trong khu vực công là một biện pháp như thế. Nếu mọi chuyện suôn sẻ, thì đến lúc nào đó, sẽ có những thương hiệu Việt trở nên thân quen với người tiêu dùng và nhờ vậy, có giá trị kinh tế cao.
Song, muốn được coi là lớn mạnh, thì thương hiệu nội phải có chỗ đứng vững chắc không chỉ trên sân nhà, mà còn vươn đến xứ người, đặc biệt là các xứ sở văn minh, phát triển. Nếu ở đó buổi đầu người ta chưa biết sản phẩm của mình, thì phải giới thiệu, quảng bá. Cách làm tốt nhất trong bối cảnh cuộc vận động cho hàng Việt Nam, là mang bầu không khí trong nước của chiến dịch đó ra xứ người. Cứ hình dung: mỗi công dân Việt khi xuất ngoại, nhất là vì các lý do công vụ hoặc kinh doanh, được yêu cầu thể hiện thói quen sử dụng hàng nội trong sinh hoạt hàng ngày trước mắt bạn bè quốc tế nhằm thu hút sự chú ý của họ, từ trang phục, giày dép, cặp xách,… Nên lắm chứ!
Bởi đơn giản, nếu thấy mình chỉ thích xài đồ ngoại, thì người ta chẳng có lý do gì trân trọng hoặc ít ra là quan tâm đến sản phẩm cùng loại do mình làm ra và mời người ta mua.