Công bố toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI

Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng Thủ đô phát triển nhanh, bền vững

(Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XV tại Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội)

Đại hội đại biểu lần thứ XVI Đảng bộ Thành phố Hà Nội có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ Thành phố (2010 - 2015); nhìn lại 30 năm đổi mới ở Thủ đô; quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thủ đô giai đoạn 2015 - 2020; kiểm điểm sự lãnh đạo của Thành ủy khóa XV và bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khóa XVI.

Đại hội XVI có ý nghĩa rất quan trọng, khẳng định quyết tâm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của toàn Đảng bộ; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng Thủ đô phát triển nhanh, bền vững.
PHẦN THỨ NHẤT

ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ

THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XV (2010 - 2015) 

VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở THỦ ĐÔ
I. ĐÁNH GIÁ 5 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XV ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ (2010 - 2015)

A. NHỮNG KẾT QUẢ NỔI BẬT

1. Vượt qua khó khăn, thách thức, kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển và đạt mức tăng trưởng khá

Thành ủy đã tập trung lãnh đạo, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách lớn về phát triển kinh tế của Trung ương trong giai đoạn vừa qua, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đảm bảo an sinh xã hội, đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Năm năm qua, kinh tế Thủ đô tiếp tục phát triển, đạt mức tăng trưởng khá. Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân 5 năm 2011 - 2015 ước tăng 9,23%, gấp 1,58 lần mức tăng bình quân chung của cả nước ([1]). Quy mô GRDP năm 2015 theo giá hiện hành ước đạt khoảng 27,6 tỷ USD, bình quân thu nhập đầu người khoảng 3.600 USD, tăng gấp 1,8 lần so với năm 2010. Các ngành kinh tế được phục hồi và tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực: tỷ trọng ngành dịch vụ chiếm 54%, công nghiệp - xây dựng chiếm 41,5% và nông nghiệp là 4,5%; các nhóm ngành đều có mức tăng trưởng khá:

- Ngành dịch vụ tiếp tục có mức tăng trưởng cao, bình quân 5 năm ước tăng 9,97%; kim ngạch xuất khẩu tăng 8,1%; nhập khẩu tăng 3,7%. Các ngành dịch vụ chất lượng cao, trình độ cao có mức tăng trưởng cao hơn so với toàn ngành ([2]). Du lịch phát triển mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung ([3]).  

- Ngành công nghiệp - xây dựng được phục hồi, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5 năm ước tăng 9%. Bước đầu hình thành một số khu công nghệ cao hoạt động hiệu quả; công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp điện tử, công nghệ thông tin phát triển mạnh ([4]); các khu, cụm công nghiệp đóng góp quan trọng vào phát triển chung của ngành ([5]), công nghiệp hỗ trợ được đẩy mạnh. Các làng nghề, phố nghề truyền thống từng bước được củng cố, xây dựng thương hiệu sản phẩm ([6]).

- Ngành nông nghiệp đạt kết quả tích cực, bình quân ước tăng 2,4%/năm, cao hơn so với chỉ tiêu đặt ra, giá trị sản xuất ước đạt 231 triệu đồng/ha đất canh tác, tăng 1,24 lần so với năm 2010. Cơ cấu nội ngành nông nghiệp tiếp tục chuyển dịch theo hướng giảm dần tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, chế biến và dịch vụ nông nghiệp ([7]). Phát triển nông nghiệp sinh thái, ứng dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, nâng cao năng suất, bảo đảm hiệu quả, bền vững. Hình thành và mở rộng một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung có giá trị kinh tế cao([8]); đã có nhiều cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa, hoa, cây ăn quả chất lượng cao, giá trị sản xuất lớn, đạt từ 1 - 2 tỷ đồng/ha ([9]).

Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của Thủ đô tiếp tục được hoàn thiện; các thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển và có sự biến đổi tích cực về tỷ trọng: kinh tế nhà nước khoảng 43,6%; kinh tế ngoài nhà nước 38,9%; kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 16,5%. Cơ bản hoàn thành kế hoạch sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011 - 2015.

Việc hợp tác, liên kết phát triển kinh tế Vùng được quan tâm, gắn với nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy thế mạnh ở từng địa phương và trong toàn vùng. Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng khu vực ngoại thành, kết nối hạ tầng giữa Hà Nội và các địa phương trong Vùng. Liên kết, hợp tác với các tỉnh, thành phố trong cả nước, đặc biệt là liên kết phát triển du lịch giữa Thủ đô với Vùng đồng bằng sông Hồng đạt kết quả tích cực. Hà Nội thực hiện tốt vai trò là trung tâm tài chính - ngân hàng, dịch vụ chất lượng cao của khu vực phía Bắc và cả nước. Chương trình hội nhập kinh tế quốc tế được chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Sức cạnh tranh của kinh tế Thủ đô từng bước được nâng lên.

Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đẩy mạnh xã hội hóa, tập trung cho đầu tư phát triển. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 5 năm đạt trên 1 triệu 400 ngàn tỷ đồng, đạt kế hoạch và tăng gấp gần 2 lần giai đoạn 2006 -2010. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút được 1.080 dự án, với tổng số vốn đăng ký gần 3 tỷ USD. Thực hiện chủ trương xã hội hóa đầu tư đạt kết quả tích cực, nhất là lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế ([10]).

Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt và vượt dự toán: 5 năm 2011 -2015, tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 714,5 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tăng bình quân khoảng 7,1%/năm. Chi ngân sách địa phương gần 273 ngàn tỷ đồng, tỷ lệ tăng bình quân 7,7%/năm, bảo đảm cân đối chi thường xuyên và ưu tiên tập trung cho đầu tư phát triển. Trong đó, chi đầu tư phát triển bằng 45,04%, chi thường xuyên bằng 52,38% tổng chi ngân sách.

2. Quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị được chú trọng và có chuyển biến tiến bộ rõ rệt

Tập trung hoàn thành và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đồng bộ Chiến lược, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô, Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Hoàn thành các quy hoạch ngành, lĩnh vực, cơ bản hoàn thành các quy hoạch phân khu, quy hoạch chung các huyện, thị xã, thị trấn, các đô thị vệ tinh. Tăng cường công tác quản lý quy hoạch xây dựng đô thị; từng bước đẩy mạnh phân cấp lập, thẩm định, phê duyệt và quản lý, thực hiện quy hoạch cho cấp quận, huyện, thị xã. Công bố công khai quy hoạch cho các tổ chức, cá nhân biết để thực hiện và giám sát việc thực hiện quy hoạch.

Thành phố tập trung huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, chủ động phối hợp với các bộ, ngành Trung ương đẩy mạnh đầu tư phát triển đồng bộ và từng bước hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội; cải tạo, hạ ngầm hệ thống cáp điện và thông tin liên lạc. Chú trọng đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải: các tuyến cao tốc, quốc lộ hướng tâm; các tuyến đường, các trục chính đô thị và các tuyến giao thông quan trọng trên địa bàn Thủ đô; phát triển nhiều công trình lớn, hiện đại, như: Nhà ga quốc tế T2 Nội Bài; đường vành đai 3, đường Nhật Tân - Nội Bài, đường 5 kéo dài; cầu Nhật Tân, cầu Vĩnh Tuy, cầu Vĩnh Thịnh, cầu Đông Trù và hoàn thành 07 cầu vượt, góp phần giảm ùn tắc giao thông khu vực nội đô. Triển khai thi công các tuyến đường sắt đô thị Hà Đông - Cát Linh, Nhổn - ga Hà Nội; nghiên cứu đề xuất, triển khai tuyến Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo; các dự án cải tạo, nâng cấp các công trình hạ tầng điện, cấp thoát nước, đầu tư trang thiết bị, cơ sở phòng cháy, chữa cháy. Hoàn thành dự án thoát nước giai đoạn 2, một số nhà máy xử lý nước thải đi vào hoạt động, đã góp phần cải thiện môi trường. Cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới một số trường học, bệnh viện lớn. Công tác giải phóng mặt bằng được thực hiện có hiệu quả; chính sách bồi thường, hỗ trợ được quan tâm, lợi ích của người dân được coi trọng. Quỹ nhà tái định cư và quản lý nhà tái định cư được chú trọng, cơ bản đáp ứng được nhu cầu tái định cư và phục vụ triển khai các dự án, công trình trọng điểm.

Chất lượng dịch vụ đô thị tiếp tục được nâng cao. Phát triển mạng ống truyền dẫn và phân phối nước sạch, đáp ứng cơ bản cho khu vực đô thị và mở rộng quy mô ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh duy tu, vận hành hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, nâng cao chất lượng quản lý, khai thác. Cải tạo, nâng cấp, phát huy hiệu quả hệ thống các hồ nước, công viên, vườn hoa và chỉnh trang cây xanh đô thị. Vận hành hệ thống chiếu sáng tiết kiệm, tăng cường chiếu sáng các tuyến đường lớn, các công trình kiến trúc, văn hóa và các khu dân cư.

Việc quản lý và điều chỉnh phân bố dân cư trên địa bàn được tăng cường. Xây dựng nhiều khu đô thị mới hiện đại, khu nhà ở, gắn với điều chỉnh phân bố dân cư. Phát triển nhà ở xã hội, ký túc xá sinh viên, nhà ở cho công nhân, nhà ở cho các đối tượng chính sách và người có thu nhập thấp. Tiếp tục thực hiện cải tạo chung cư cũ, cải thiện nhà ở cho người dân. Thực hiện di dời một số cơ sở sản xuất gây ô nhiễm và các cơ quan, đơn vị, bệnh viện, trường đại học, cao đẳng, v.v... ra ngoài khu vực nội đô lịch sử. Tăng cường quản lý lao động, nhất là lao động trong các khu, cụm công nghiệp, người nhập cư, lao động nước ngoài trên địa bàn.

Công tác quản lý đô thị, chấn chỉnh trật tự, kỷ cương xây dựng, bảo đảm an toàn giao thông, trật tự, văn minh đô thị được tăng cường, nhất là sau hơn hai năm thực hiện “Năm trật tự và văn minh đô thị”. Nếp sống văn minh đô thị, trật tự, an toàn xã hội có chuyển biến tốt hơn. 

Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và quản lý đất đai được chú trọng. Thực hiện đồng bộ, quyết liệt công tác bảo vệ môi trường, khắc phục dần tình trạng ô nhiễm, bảo đảm vệ sinh môi trường. Công tác phòng, chống lụt bão, bảo vệ, tu sửa, nâng cấp hệ thống đê điều, tưới tiêu, thoát nước được duy trì thường xuyên, hạn chế úng ngập cục bộ kéo dài trong các đợt mưa, bão lớn. Công tác phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ được quan tâm; ứng phó với biến đổi khí hậu đạt được một số kết quả bước đầu.

3. Công tác xây dựng nông thôn mới đạt kết quả tích cực, đời sống của nông dân Thủ đô được cải thiện và ngày càng nâng cao

Công tác xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo, với sự vào cuộc quyết liệt của cấp ủy, chính quyền, MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; sự tham gia, phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân Thủ đô, đã đạt được kết quả tích cực. Trong 5 năm, đã huy động bình quân khoảng 5.800 tỷ đồng/năm cho đầu tư xây dựng nông thôn mới ([11]).

 Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội khu vực nông thôn được chú trọng đầu tư. Hệ thống đê kè, thuỷ lợi, giao thông nông thôn v.v... được củng cố, nâng cấp. Tỷ lệ xã có đường ô tô đến trụ sở được bê tông hóa đạt 100%; đường trục thôn và liên thôn được bê tông hóa đạt 95%. Tỷ lệ thôn, xóm, cụm dân cư có nhà văn hóa đạt 80,5%, các xã đều có hệ thống loa truyền thanh. Không còn phòng học tạm, dột nát và tình trạng phải học ba ca. 100% số xã có trạm y tế, có bác sỹ và nhiều xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Môi trường nông thôn được cải thiện, tỷ lệ thu gom và xử lý rác thải ở ngoại thành đạt 90%, dân số nông thôn được sử dụng nước đảm bảo vệ sinh đạt 100%. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố, dân chủ được mở rộng; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. 

Kinh tế nông thôn có bước phát triển khá. Nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao đã xây dựng được thương hiệu có uy tín; bước đầu hình thành một số chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; một số hợp tác xã nông nghiệp được củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động. Đời sống vật chất và tinh thần của nông dân Thủ đô được cải thiện, nhiều vùng được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tiếp tục tăng lên, năm 2015 ước đạt 33 triệu đồng/người/năm, gấp 2 lần so với năm 2011 ([12]). Tỷ lệ các hộ có nhà kiên cố và khang trang; có truyền hình, điện thoại cố định và kết nối internet ngày càng tăng. Tỷ lệ hộ nghèo khu vực nông thôn giảm từ 11,2% năm 2011 xuống còn khoảng 2% năm 2015. 

 Dự kiến đến cuối năm 2015, toàn Thành phố có 166/386 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 43% tổng số xã (cả nước đạt 20%). Việc dồn điền, đổi thửa đạt trên 97% những diện tích có thể dồn điền đổi thửa, tạo tiền đề phát triển sản xuất hàng hóa, ứng dụng công nghệ cao, thâm canh tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

4. An sinh xã hội được bảo đảm, chất lượng cuộc sống của nhân dân từng bước được nâng cao   

Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân có nhiều tiến bộ. Đã thực hiện các giải pháp đồng bộ, tích cực để từng bước khắc phục tình trạng quá tải của các bệnh viện. Tăng cường đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị cho các bệnh viện, nhất là bệnh viện tuyến huyện. Giai đoạn 2011 - 2015, Thành phố đã đầu tư trên 3.068 tỷ đồng từ ngân sách để cải tạo, nâng cấp, mua sắm trang thiết bị cho 49 dự án của 37 bệnh viện trên địa bàn. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên; đã thực hiện thành công một số kỹ thuật mới ([13]). Hệ thống y tế cơ sở và mạng lưới y tế dự phòng được củng cố, tăng cường cả về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất và trang thiết bị ([14]). Chất lượng y tế cộng đồng có chuyển biến; dịch bệnh được kiểm soát; công tác kiểm tra, giám sát bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm được tiến hành thường xuyên, không để xảy ra ngộ độc lớn trên địa bàn.

Công tác dân số, gia đình được chú trọng, bảo đảm ổn định mức tăng dân số tự nhiên và từng bước nâng cao chất lượng dân số. Việc chăm sóc sức khỏe, bảo trợ, nuôi dưỡng trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh khó khăn được quan tâm; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm đáng kể, còn dưới 10%. Thực hiện tốt các chương trình hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ, bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình.

Thể dục, thể thao (TDTT) Thủ đô tiếp tục phát triển, khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước, là đơn vị chủ lực của thể thao thành tích cao Việt Nam tại các đấu trường khu vực và quốc tế ([15]). Cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt động TDTT được tăng cường. Phong trào TDTT quần chúng phát triển mạnh. Việc giáo dục thể chất cho thế hệ trẻ ngày càng được quan tâm. Công tác xã hội hóa lĩnh vực TDTT được thực hiện có hiệu quả.

Các chương trình, đề án, kế hoạch về giải quyết việc làm, dạy nghề cho lao động, nhất là lao động nông thôn, phát triển thị trường lao động được thực hiện có hiệu quả. Bình quân mỗi năm đào tạo nghề, truyền nghề cho trên 15 vạn lao động và giải quyết việc làm cho 14 vạn lượt lao động; tỷ lệ thất nghiệp còn dưới 4,8%. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện trong nhân dân tiếp tục mở rộng và phát triển.

Giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Nhiều chương trình, chính sách giảm nghèo, hỗ trợ người tàn tật, người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, v.v... được triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của các đối tượng trên. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2015 giảm xuống còn 1,71%.

Công tác đấu tranh phòng, chống và đẩy lùi các tệ nạn xã hội được thực hiện quyết liệt. Mô hình xã, phường, địa bàn dân cư, cơ quan, trường học không có tệ nạn xã hội được nhân rộng. Chất lượng quản lý, giáo dục, chữa trị tại các trung tâm chữa bệnh và giáo dục lao động xã hội của Thành phố được nâng cao.

Chất lượng cuộc sống của nhân dân Thủ đô, đặc biệt là khu vực nông thôn, miền núi, vùng đồng bào dân tộc ít người được cải thiện. Việc hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội và thực hiện chính sách đối với người có công, chính sách dân tộc được triển khai thực hiện có hiệu quả ([16]). Phong trào “đền ơn, đáp nghĩa” được đẩy mạnh, huy động được nhiều tổ chức, cá nhân tham gia. 

5. Văn hóa tiếp tục phát triển; xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh đạt kết quả đáng ghi nhận

Văn hóa tiếp tục phát triển, một số mặt chuyển biến tích cực; thực hiện tốt các chủ trương về nâng cao chất lượng hoạt động văn hóa ở cơ sở; đời sống văn hóa, tinh thần của các tầng lớp nhân dân Thủ đô được cải thiện rõ rệt. Hệ thống các thiết chế văn hóa được quan tâm đầu tư, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển văn hóa của cộng đồng và bảo tồn bản sắc văn hoá các dân tộc. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường.

Việc bảo tồn, tôn tạo, nghiên cứu, giới thiệu, quảng bá, phát huy giá trị di sản văn hóa được tiến hành đồng bộ và có chuyển biến tích cực. Hoạt động văn học, nghệ thuật, giao lưu văn hóa trong nước, khu vực và quốc tế tiếp tục mở rộng, phục vụ tốt yêu cầu nhiệm vụ chính trị và đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Thủ đô.

Hoạt động báo chí, xuất bản, truyền thông tiếp tục phát triển và đạt kết quả tích cực, góp phần phát huy dân chủ, định hướng dư luận xã hội, thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của Thành phố. Quản lý nhà nước về bưu chính, viễn thông, dịch vụ Internet từng bước đi vào nền nếp.

Xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh được chú trọng và đạt kết quả đáng ghi nhận. Nhiều phong trào, hoạt động xây dựng mô hình văn hóa ở cơ sở tiếp tục được triển khai đạt kết quả tốt; những giá trị, nét đẹp văn hoá của người Hà Nội thanh lịch, văn minh, truyền thống trong gia đình, họ tộc và cộng đồng dân cư được kế thừa, phát huy ([17]). Nếp sống văn hoá, văn minh đô thị, nhất là trong việc cưới, việc tang, tổ chức lễ hội có chuyển biến tốt. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử văn minh nơi công cộng và đưa vào giảng dạy bộ tài liệu giáo dục nếp sống thanh lịch, văn minh cho học sinh Thủ đô, v.v... đã góp phần nâng cao nhận thức, khơi dậy niềm tự hào, điều chỉnh hành vi của người Hà Nội, nhất là thế hệ trẻ.

6. Khoa học và công nghệ được đẩy mạnh; giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, chất lượng nguồn nhân lực từng bước được nâng cao

Sự nghiệp khoa học và công nghệ được đẩy mạnh, hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được đổi mới, đã có đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội; tập trung lãnh đạo xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả nhiều chương trình, đề án nghiên cứu, phát triển khoa học và công nghệ Thủ đô, gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI), góp phần thúc đẩy đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, năng lực quản lý, năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế tri thức. Chỉ đạo thực hiện tốt một số cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ trong nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ. Tỷ lệ ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn của các đề tài, dự án ngày càng cao. Các dự án đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ được đẩy mạnh. Thị trường khoa học và công nghệ Thủ đô tiếp tục được mở rộng; hoạt động quản lý sở hữu trí tuệ được tăng cường; tích cực hỗ trợ áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp, xây dựng nhãn hiệu tập thể cho một số sản phẩm, làng nghề truyền thống.

Giáo dục đào tạo Thủ đô tiếp tục được đổi mới, phát triển, dẫn đầu cả nước về các tiêu chí: quy mô giáo dục, mạng lưới trường lớp và chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, số học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Tập trung chỉ đạo thực hiện nghiêm túc việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), triển khai xây dựng mô hình trường chất lượng cao theo Luật Thủ đô. Phê duyệt và tổ chức thực hiện một số quy hoạch chuyên ngành về phát triển hệ thống giáo dục, đào tạo và mạng lưới trường học của Thành phố. Chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục được nâng lên, 100% giáo viên đứng lớp có trình độ đạt chuẩn theo quy định. Công tác tuyển sinh vào các lớp đầu cấp được phân tuyến hợp lý hơn. Cơ sở vật chất, trang thiết bị và nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo được tăng cường; 50% trường đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành xóa phòng học tạm và phòng học nhà cấp 4; 100% quận, huyện đã đạt chuẩn phổ cập mầm non 5 tuổi (vượt trước 2 năm so với toàn quốc), phổ cập THCS đạt 99,36%, phổ cập THPT đạt 90%. Công tác xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo được mở rộng.

Công tác đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất lượng cao của Thành phố được coi trọng. Đã xây dựng và triển khai thực hiện 04 đề án nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học và công nghệ; xây dựng cơ chế đào tạo, sử dụng đội ngũ trí thức, nhân lực có trình độ cao, tay nghề cao, Việt kiều và chuyên gia nước ngoài. Việc liên kết giữa doanh nghiệp với cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo để phát triển nguồn nhân lực ngày càng chặt chẽ hơn. Mạng lưới các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tiếp tục được hoàn thiện; trường Đại học Thủ đô Hà Nội được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập cuối tháng 12/2014; công tác đào tạo nghề được đẩy mạnh cả về hình thức, loại hình, quy mô và chất lượng.

7. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô được giữ vững; quốc phòng và quân sự địa phương ngày càng được củng cố, tăng cường

Thành ủy đã tập trung lãnh đạo triển khai thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chủ trương, giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Chính trị - xã hội trên địa bàn Thủ đô luôn ổn định, đặc biệt là trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và những vấn đề liên quan đến biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp. Phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân Thủ đô trong tổ chức thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Bảo vệ vững chắc hệ thống chính trị; bảo đảm an toàn tuyệt đối các mục tiêu trọng điểm, sự kiện quan trọng diễn ra trên địa bàn. Lực lượng Công an Thủ đô đã phối hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành chủ động đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; giải quyết tốt an ninh nội bộ, an ninh văn hóa, an ninh thông tin, xử lý kịp thời những vấn đề phức tạp, bức xúc, không để xảy ra đột biến, bất ngờ, gây rối, phá hoại, biểu tình trái pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự. Thực hiện các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh chủ động, sáng tạo, có hiệu quả cao, kết hợp với kiên trì tuyên truyền, vận động, nên đã hạn chế được các hoạt động tôn giáo trái phép, không để phát sinh các tụ điểm phức tạp.

Trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô có nhiều chuyển biến tích cực. Đã kiềm chế, từng bước đẩy lùi hoạt động của các loại tội phạm và vi phạm pháp luật. Chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh trấn áp các loại tội phạm được nâng lên. Đã triển khai đồng bộ nhiều chương trình, kế hoạch, mô hình mới, tạo sự đột phá, hiệu quả cao trong phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, được nhân dân Thủ đô ghi nhận và nhân rộng kinh nghiệm tại nhiều tỉnh, thành trong cả nước.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng của Thủ đô được chú trọng và đạt kết quả toàn diện. Nhiệm vụ giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh cho các đối tượng, học sinh, sinh viên được thực hiện thường xuyên, chất lượng tốt. Tiềm lực quốc phòng được nâng lên. Hà Nội là địa phương đầu tiên trong cả nước ban hành và thực hiện có hiệu quả Nghị quyết chuyên đề của HĐND Thành phố về “Xây dựng khu vực phòng thủ Thành phố đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Quản lý nhà nước về quốc phòng trên địa bàn được tăng cường; kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Hoàn thành tốt chỉ tiêu huy động, kiểm tra huấn luyện quân nhân dự bị hằng năm, dẫn đầu cả nước về chất lượng công dân nhập ngũ đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp; đào tạo số lượng lớn sĩ quan dự bị bằng ngân sách địa phương; xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch thế trận quân sự khu vực phòng thủ. Hoàn thành xuất sắc diễn tập khu vực phòng thủ thành phố Hà Nội năm 2013; đổi mới, nâng cao chất lượng diễn tập khu vực phòng thủ cấp huyện và diễn tập chiến đấu trị an cấp xã trên địa bàn Thành phố.

Lực lượng vũ trang Thủ đô được tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp, nhất là chất lượng về chính trị, khả năng sẵn sàng chiến đấu và trình độ chính quy được nâng lên. Phối hợp chặt chẽ giữa lực lượng quân đội và công an, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Phát huy được vai trò là lực lượng nòng cốt, xung kích trong phòng, chống lụt bão, cháy nổ, cháy rừng, cứu hộ, cứu nạn. Phối hợp với các đơn vị quân đội trên địa bàn làm tốt công tác dân vận, xây dựng thế trận lòng dân, xây dựng địa bàn an toàn, vững mạnh. Thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội, nhất là các chế độ chính sách mới được ban hành. Công tác đối ngoại quân sự giữa Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và Bộ Tư lệnh Thủ đô các nước Lào, Cămpuchia; các hoạt động hợp tác, kết nghĩa với lực lượng vũ trang của một số tỉnh, như: Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Lâm Đồng,… ngày càng được tăng cường và thực hiện có hiệu quả.

8. Hoạt động đối ngoại, hợp tác phát triển tiếp tục được đẩy mạnh, vị thế, uy tín Thủ đô ngày càng được nâng cao

Công tác đối ngoại, hợp tác, hội nhập phát triển của Thành phố tiếp tục được đẩy mạnh toàn diện và đạt kết quả tốt. Đến nay, Hà Nội có quan hệ hữu nghị, hợp tác với hơn 100 thủ đô, thành phố của các nước; là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế có uy tín trên thế giới. Nhiều cam kết hợp tác song phương, đa phương được ký kết và triển khai có hiệu quả. Quan hệ hữu nghị, hợp tác với các đối tác được củng cố và tăng cường; kinh tế đối ngoại tiếp tục phát triển. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài được chú trọng.

Hoạt động đối ngoại nhân dân được mở rộng, góp phần tăng cường sự hiểu biết và nâng cao vị thế quốc tế của Thủ đô. Công tác thông tin đối ngoại từng bước được đẩy mạnh, thiết thực quảng bá hình ảnh, nâng cao uy tín của Việt Nam và Hà Nội trên trường quốc tế ([18]).

Thành phố đã chủ động, tích cực, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, sự phối hợp, hợp tác của các bộ, ban, ngành. Quan hệ hợp tác cùng phát triển trên các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh giữa Thủ đô với các tỉnh, thành phố trong cả nước đạt kết quả tốt ([19]).

9. Hệ thống chính quyền, MTTQ và tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp ngày càng vững mạnh, hiệu lực quản lý, điều hành và chất lượng hoạt động được nâng lên 

Hệ thống tổ chức chính quyền các cấp tiếp tục được kiện toàn vững mạnh và hoạt động có hiệu quả. HĐND các cấp tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các kỳ họp và ban hành nghị quyết, chất lượng hoạt động giám sát, tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, đôn đốc giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân; phát huy được vai trò, hiệu quả hoạt động của cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương.

Hoạt động của UBND các cấp có nhiều đổi mới, năng lực quản lý, điều hành và hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng lên. UBND Thành phố đã lựa chọn chủ đề công tác cho từng năm, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm và các khâu đột phá để tập trung chỉ đạo thực hiện có hiệu quả. Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ cơ quan hành chính các cấp được củng cố, kiện toàn, có chuyển biến về chất lượng. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng chính quyền điện tử đạt hiệu quả thiết thực. Cải cách hành chính (CCHC) tiếp tục được đẩy mạnh, trọng tâm là thực hiện cải cách thủ tục hành chính (TTHC), tiếp tục hiện đại hóa nền hành chính, nâng cao trình độ, năng lực thực thi công vụ, ý thức, trách nhiệm và hiệu quả phục vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Chất lượng dịch vụ hành chính, dịch vụ công có nhiều chuyển biến. Chỉ số CCHC của thành phố Hà Nội xếp thứ 5 trên 63 tỉnh, thành phố. Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức cơ bản được chuẩn hóa, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác theo dõi, kiểm tra việc thi hành pháp luật, tiếp dân và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân đạt kết quả tích cực, kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc và mới phát sinh, hạn chế tình trạng khiếu kiện đông người, vượt cấp; tập trung rà soát, giải quyết dứt điểm các vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo dài, không để phát sinh điểm nóng.

Các cơ quan tư pháp và đội ngũ cán bộ của cơ quan tư pháp Thành phố được bố trí, sắp xếp cơ bản hợp lý, hoạt động có hiệu quả. Công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và các hoạt động bổ trợ tư pháp được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Hiệu quả công tác thi hành án dân sự được nâng cao, nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng được giải quyết dứt điểm. Việc phối hợp chỉ đạo của các cơ quan tố tụng trong giải quyết các vụ án hình sự, nhất là các vụ trọng điểm, phức tạp có hiệu quả hơn. 

Chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp có chuyển biến tiến bộ: Tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của MTTQ và đoàn thể các cấp, nhất là cấp cơ sở và tổ chức đoàn thể ở các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước được tăng cường, chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Đã chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, thu hút, tập hợp đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân Thủ đô hăng hái tham gia thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Nhiều cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước được tổ chức sâu rộng, thiết thực, hiệu quả, tập hợp được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tạo đồng thuận xã hội, góp phần tích cực cùng chính quyền các cấp giải quyết thành công nhiều việc lớn, việc khó, nhất là những việc phức tạp kéo dài và mới phát sinh.

Hoạt động giám sát, phản biện xã hội được tăng cường và đi vào chiều sâu, trọng tâm là việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tham gia đóng góp nhiều ý kiến quan trọng xây dựng các chủ trương, nghị quyết, chương trình, kế hoạch, đề án lớn về phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hội nhập; xây dựng Đảng, chính quyền các cấp. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên được quan tâm bảo vệ. Mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội ngày càng chặt chẽ, phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân Thủ đô.

10. Công tác xây dựng Đảng được chú trọng, tạo được nhiều chuyển biến tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng cao

Công tác chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) được tiến hành đồng bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhìn chung, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Thành phố tới cơ sở đã triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả 4 nhóm giải pháp chủ yếu của Nghị quyết, trọng tâm là nhóm giải pháp tự phê bình, phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ, gắn với thực hiện Chương trình số 01 của Thành ủy. Đã góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, tăng cường kỷ luật, kỷ cương của Đảng, có tác dụng cảnh báo, răn đe, ngăn chặn các hành vi tiêu cực; nâng cao nhận thức, ý thức tu dưỡng, rèn luyện về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên; công tác tổ chức, cán bộ, đặc biệt là xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ có chuyển biến tốt hơn. Qua kiểm điểm tự phê bình, từng tập thể cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên đã nỗ lực, quyết tâm tự sửa chữa, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; kịp thời phát hiện, biểu dương, nhân rộng nhân tố điển hình, ngăn chặn các biểu hiện suy thoái, tiêu cực và xử lý nghiêm vi phạm, tạo ra bước chuyển biến mới về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Công tác chính trị, tư tưởng, gắn với việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được chú trọng và tăng cường. Chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng và tổng kết thực tiễn được nâng lên. Trong nhiệm kỳ, Thành ủy đã tham mưu cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 11 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô giai đoạn 2011 - 2020, Quốc hội ban hành Luật Thủ đô; chỉ đạo tổng kết, đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết 15 của Quốc hội (khóa XII) về mở rộng địa giới hành chính Thủ đô; 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới ở Hà Nội, 9 chương trình và nhiều đề án công tác lớn của Thành ủy (khóa XV).

Việc chỉ đạo quán triệt, hướng dẫn triển khai tổ chức thực hiện các chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và của Thành ủy tiếp tục được đổi mới, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng được triển khai tích cực, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong toàn Đảng bộ và sự đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân Thủ đô đối với Đảng bộ và sự nghiệp đổi mới của Đảng. Công tác lãnh đạo các hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ được quan tâm, kịp thời nắm bắt, định hướng tư tưởng, hướng dẫn dư luận, đấu tranh có hiệu quả với âm mưu “diễn biến hòa bình” và thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc và mới phát sinh về tư tưởng trên địa bàn.

Công tác tổ chức, cán bộ tiếp tục được đổi mới và có chuyển biến tích cực, tập trung lãnh đạo thực hiện tốt Chương trình số 01 của Thành ủy về xây dựng Đảng. Trọng tâm là, lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị các cấp vững mạnh, xây dựng, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 09 của Thành ủy, tạo bước chuyển biến mạnh về công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, góp phần nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của chủ doanh nghiệp và người lao động đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng và hệ thống chính trị các cấp; phát huy được vai trò, tác dụng của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các doanh nghiệp. Đến nay, đã thành lập mới 540 tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước, kết nạp 3.117 đảng viên, trong đó có 16 chủ doanh nghiệp tư nhân. Tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả Đề án số 06 về kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của cấp ủy và các tổ chức trong hệ thống chính trị trên địa bàn dân cư, tổ dân phố, thôn, xóm ở xã, phường, thị trấn. Qua đó, đã sắp xếp lại mô hình tổ chức chi bộ và tổ dân phố cơ bản bảo đảm thống nhất, thu gọn được nhiều đầu mối, giảm được gần 1/3 số tổ dân phố (gồm có 2.239 tổ và 6 thôn), khắc phục được tình trạng cồng kềnh về bộ máy và chồng chéo trong lãnh đạo, chỉ đạo kéo dài trong nhiều năm, bước đầu nâng cao được chất lượng hoạt động hệ thống chính trị ở cơ sở.

 Chú trọng củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp chi bộ. Công tác đánh giá chất lượng tổ chức đảng; quản lý, phát triển đảng viên, nhất là đảng viên trong đội ngũ trí thức, học sinh, sinh viên được chú trọng. Số lượng tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh, đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, số đảng viên được kết nạp hàng năm, v.v... đều đạt và vượt chỉ tiêu Đại hội XV ([20]). Việc đánh giá, quy hoạch, bố trí, sắp xếp, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển và thực hiện chính sách cán bộ được chỉ đạo thực hiện đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, hiệu quả. Trong nhiệm kỳ, đã điều động, luân chuyển được gần 180 cán bộ Thành ủy quản lý. Thực hiện tốt Chỉ thị 07 của Ban Thường vụ Thành ủy về quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ để chuẩn bị nhân sự cho đại hội đảng các cấp. Đã đào tạo được 1.250 cán bộ nguồn khối đảng, đoàn thể, chính quyền và 106 cán bộ dự nguồn cấp ủy của Thành phố. 

Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường và thực hiện có hiệu quả. Nội dung kiểm tra, giám sát tập trung vào một số trọng tâm, như: việc thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác lớn của Thành phố; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI); công tác quản lý đất đai, tài chính, quy hoạch đô thị, dự án đầu tư, công tác tổ chức cán bộ, thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Trong nhiệm kỳ, đã kiểm tra 278 tổ chức đảng, 1.063 đảng viên; giám sát chuyên đề gần 7.300 tổ chức đảng và trên 22.840 đảng viên. Thông qua kiểm tra, giám sát, đã phát hiện các nhân tố tích cực, mô hình mới, có hiệu quả để nhân rộng; những sơ hở, bất cập trong quản lý, điều hành để chấn chỉnh; những bất hợp lý trong cơ chế, chính sách để sửa đổi, bổ sung và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Năm năm qua, đã xử lý kỷ luật 66 tổ chức đảng, 3.460 đảng viên, góp phần giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.

Công tác dân vận được quan tâm và đạt kết quả tích cực. Hệ thống dân vận, từ Thành phố đến cơ sở được củng cố, kiện toàn, phương thức hoạt động tiếp tục được đổi mới; chất lượng, hiệu quả hoạt động được nâng lên. Công tác dân vận của chính quyền và lực lượng vũ trang Thủ đô được tăng cường. Việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được mở rộng và chỉ đạo quyết liệt, tạo đồng thuận trong xã hội, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh của Thủ đô. Công tác tôn giáo, dân tộc được chú trọng, giải quyết thành công nhiều việc mới, việc khó; đời sống đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn được cải thiện tốt hơn. Việc phối hợp công tác giữa khối dân vận Thành phố với các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị ngày càng chặt chẽ và có hiệu quả.

Công tác nội chính được chú trọng và đạt một số kết quả cơ bản. Bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng bộ đối với các tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong khối. Công tác cải cách tư pháp của Thành phố theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) và Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật trong điều tra, xử lý các vụ án và công tác bảo vệ Đảng.

Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ ([21]). Chú trọng các giải pháp phòng ngừa đi đôi với xử lý nghiêm minh mọi vi phạm. Thực hiện tốt việc rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đẩy mạnh CCHC, bảo đảm công khai, minh bạch các hoạt động kinh tế - xã hội và công tác cán bộ, thi tuyển công chức, viên chức. Tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý kịp thời một số vụ việc bức xúc liên quan đến tham nhũng, lãng phí, được nhân dân đồng tình. Tạo điều kiện để nhân dân, MTTQ, tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội các cấp phát huy vai trò giám sát, tham gia phòng, chống tham nhũng và thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp tiếp tục được đổi mới, bảo đảm bài bản, khoa học, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm. Thành công nổi bật trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo nhiệm kỳ qua là, Thành ủy đã, cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XV thành 9 chương trình công tác lớn; xác định rõ 5 nhiệm vụ chủ yếu và 2 khâu đột phá, kết hợp với xác định chủ đề công tác từng năm để tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ, có hiệu quả. Đổi mới mạnh mẽ phong cách công tác, lề lối làm việc, thực hiện “nói đi đôi với làm”, tiến hành phân cấp mạnh cho cơ sở, đề cao trách nhiệm cá nhân, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, địa phương, đơn vị. Bám sát thực tiễn, gần dân; tăng cường kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn ngừa và xử lý kịp thời các vi phạm, nhất là những vấn đề nổi cộm, bức xúc, phát sinh.  

Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng cao. Cải cách hành chính trong Đảng và hệ thống chính trị các cấp tiếp tục được đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả, đặc biệt là trong việc xây dựng, hoàn thiện, chỉ đạo thực hiện tốt các quy chế, quy định và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; dân chủ trong Đảng và đời sống xã hội tiếp tục được mở rộng; quyền làm chủ của nhân dân và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân Thủ đô ngày càng được phát huy.

Đạt được những thành quả nổi bật nêu trên là do nhiều nguyên nhân, tập trung vào một số nguyên nhân chủ yếu sau: 

Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thủ đô tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, tinh thần chủ động, năng động, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó; Thành ủy đã tập trung lãnh đạo, tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời bám sát tình hình thực tiễn của Thủ đô, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, mở rộng dân chủ và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, chung sức, đồng lòng xây dựng Thủ đô ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp uỷ, chính quyền các cấp được đổi mới mạnh mẽ, tập trung chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ sâu sát, quyết liệt, dứt điểm, hiệu quả, nhất là những nhiệm vụ trọng tâm, lĩnh vực khó, phức tạp. Đội ngũ cán bộ, đảng viên nhìn chung có phẩm chất, năng lực và tinh thần trách nhiệm cao, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thành phố Hà Nội luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ; sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình, kịp thời, có hiệu quả của các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương; sự ủng hộ, hợp tác tích cực của các tỉnh, thành phố trong cả nước và bạn bè quốc tế. 

B.  HẠN CHẾ, KHUYẾT ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN 

1. Hạn chế, khuyết điểm

1.1. Về lãnh đạo phát triển kinh tế: Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh Thủ đô; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh nhìn chung còn thấp; trong số 19 chỉ tiêu chủ yếu của Đại hội XV, có 04 chỉ tiêu vượt kế hoạch ([22]) và còn 04 chỉ tiêu không đạt kế hoạch ([23]). Do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế thế giới, lạm phát trong nước tăng cao, sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nên tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn 5 năm trước. Thực hiện một số tiêu chí cơ bản tái cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu cầu đề ra; kinh tế tri thức phát triển chậm. Hội nhập kinh tế quốc tế chưa sâu, hợp tác kinh tế vùng kém hiệu quả, vai trò điều phối kinh tế Vùng chưa được thể hiện rõ.

Chưa phát huy được thế mạnh các nguồn lực về vốn, khoa học và công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và thị trường lao động để tập trung cho đầu tư phát triển, đã ảnh hưởng không nhỏ tới tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai, tài sản công, nhất là quỹ nhà thuộc sở hữu nhà nước chưa cao. Công nghệ, quản lý sản xuất chậm đổi mới, năng suất lao động và chất lượng hàng hóa nhìn chung còn thấp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước gặp nhiều khó khăn. Tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian lận thương mại, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, v.v… còn xảy ra ở nhiều nơi.

Sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng tập trung, chuyên canh chưa được nhân rộng; tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất chưa cao, phát triển nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao và tạo thành chuỗi giá trị còn hạn chế. Việc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp chưa được quan tâm đúng mức, nhất là doanh nghiệp đầu tư cho các khâu chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. 

1.2. Về lãnh đạo công tác xây dựng và quản lý đô thị: Công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý, phát triển đô thị, một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển Thủ đô. Quản lý đất đai, trật tự xây dựng có mặt còn yếu kém. Việc cải tạo, nâng cấp, chỉnh trang các khu chung cư cũ trong nội thành còn chậm; di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường, trường đại học, cao đẳng, cơ sở khám, chữa bệnh ra ngoài khu vực nội đô cũ chưa bảo đảm tiến độ. Công tác giải phóng mặt bằng còn khó khăn; trật tự, kỷ cương an toàn giao thông chuyển biến chậm; tỷ lệ giãn dân khu vực nội đô lịch sử còn thấp. Môi trường sinh thái, nhiều nơi còn ô nhiễm nặng, nhất là ở một số sông hồ, làng nghề, cụm công nghiệp, chợ nông thôn v.v...

1.3. Về lãnh đạo phát triển văn hóa - xã hội: Lĩnh vực văn hóa - xã hội phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chưa tương xứng với vị thế, vai trò Thủ đô. Chất lượng hoạt động văn hóa, nghệ thuật còn hạn chế, chưa ngang tầm với thực tiễn đời sống xã hội phong phú, sôi động của Thủ đô; thiếu những tác phẩm có giá trị đặc sắc cả về nội dung và nghệ thuật. Hiệu quả phát huy các giá trị di sản văn hóa chưa cao. Một số tiêu chí xây dựng người Hà Nội thanh lịch, văn minh kết quả thực hiện còn hạn chế, chưa tạo được chuyển biến rõ nét về văn hóa ứng xử của người dân; nếp sống văn hóa, trật tự, kỷ cương, văn minh đô thị có mặt còn yếu kém.

 Một số mặt của công tác giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chuyển biến chậm, hiệu quả giáo dục đạo đức học đường, ứng xử văn minh ở các cấp học vẫn còn bất cập. Khoa học và công nghệ phát triển chưa tương xứng với lợi thế, tiềm năng, chưa phát huy được vai trò là động lực phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ chưa đồng bộ, chậm được đổi mới, nên chưa khuyến khích và thu hút được sự tham gia của đông đảo các nhà khoa học.

Công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có mặt còn hạn chế. Việc đầu tư cho y tế chủ yếu mới dựa vào nguồn lực ngân sách, vẫn còn tình trạng quá tải ở một số chuyên khoa tại các bệnh viện tuyến Thành phố. Chất lượng đào tạo nghề, nhất là cho lao động nông thôn ở nhiều địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.

1.4. Về lãnh đạo quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Phong trào toàn dân tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc ở một số địa bàn còn thiếu chiều sâu, hiệu quả chưa cao. Tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; kỷ cương, kỷ luật và ý thức chấp hành pháp luật chưa nghiêm; trật tự an toàn xã hội ở một số địa phương, đơn vị cơ sở chưa tốt. Chất lượng, hiệu quả hợp tác, đối ngoại để thu hút các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô một số mặt còn hạn chế.   

1.5. Về lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ chính trị và chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và Chỉ thị số 03 của Bộ Chính trị của một số cấp ủy còn hạn chế. Chất lượng tự phê bình, phê bình của một số tổ chức đảng, nhất là cấp chi bộ và đảng viên còn thấp; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm. Tính gương mẫu, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo chưa cao. Tình trạng suy thoái về phẩm chất, đạo đức, lối sống và các biểu hiện tiêu cực khác trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chậm được khắc phục. Công tác kiểm tra, giám sát, quản lý, phân công nhiệm vụ cho đảng viên ở không ít tổ chức cơ sở đảng chưa chặt chẽ, hiệu quả thấp. Việc thực hiện quy chế dân chủ có nơi còn mang tính hình thức.

Công tác chỉ đạo, quản lý điều hành của bộ máy hành chính ở một số cấp, ngành, lĩnh vực chưa thực sự quyết liệt, hiệu lực, hiệu quả còn hạn chế; một bộ phận cán bộ, đảng viên còn trì trệ, thiếu năng động, sáng tạo, thậm chí còn đùn đẩy, né tránh trách nhiệm; việc xử lý một số tập thể, cá nhân có sai
Công bố toàn văn Dự thảo Báo cáo Chính trị trình Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVI - Ảnh 1