Tinh thần văn hóa mới, văn hóa cứu quốc
Thưa ông, tại sao Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 chỉ là một đề cương hoạt động của một Đảng chính trị nhưng sao nhiều nhà nghiên cứu lại coi như đó là một cương lĩnh về văn hóa của một dân tộc, là văn hóa Cứu quốc?
- Trước khi trả lời trực tiếp vào câu hỏi của anh, tôi xin nhắc đến một chuyện trùng hợp thú vị: Vào tháng 8/1943, cụ Đào Duy Anh lúc này đã thôi hoạt động chính trị, chỉ còn là một nhà nghiên cứu độc lập đã cho rằng xã hội Việt Nam đang ở vào một giai đoạn bước ngoặt, trong đó những “bi kịch” do xung đột văn hóa quyết liệt đang diễn ra “quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta”.
Mà ở những thời điểm quan trọng như vậy “muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy” nghĩa là phải soát xét lại những giá trị của văn hóa truyền thống và “nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới”.
Như vậy Đảng đã nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, đã nêu ra một đề cương hành động để chuẩn bị một cuộc cách mạng xã hội từ văn hóa và xác định những đường hướng cho một nền văn hóa mới. Đó là nền văn hóa có thể vực dậy dân khí và nâng cao dân trí quốc gia, là nền văn hóa kháng chiến kiến quốc và tư tưởng văn hóa soi đường cho quốc dân đi vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay.
Điều gì đã giúp cho Đề cương về văn hóa có sức tập hợp lực lượng lớn như vậy?
- Đó là tinh thần văn hóa mới, văn hóa cứu quốc. Anh nghe có thấy mới không? Tôi chưa biết ở đâu có một đề cương hoạt động về văn hóa lại gắn trực tiếp với nhiệm vụ cứu quốc như bản này không chỉ vì có tổ chức Văn hóa cứu quốc mà vì tinh thần cứu quốc, phục hưng dân tộc thấm đẫm trong đó. Phương châm tất cả vì dân tộc, đại chúng, vì xóa bỏ thân phận nô nệ, nô dịch mà Đề cương… đã có sức lay động lớn đội ngũ trí thức và các tầng lớp Nhân dân.
Tinh thần ấy, sau 1945, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nói rõ hơn là Văn hóa soi đường cho quốc dân đi, là tinh thần Tổ quốc trên hết, là thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ, không chia tôn giáo đảng phái, hễ ai là người Việt Nam đều phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu nước…
Tinh thần ấy như lời hịch kêu gọi mọi tầng lớp người Việt “đứng dưới lá cờ nghĩa của Cách mạng” (Nguyễn Tuân) nên nó có sức lôi cuốn to lớn như thế. Những người có lương tri, vào thời điểm ấy đều nhận thấy cứu nước, vì nước là con đường phải theo. Sức mạnh tập hợp của tư tưởng văn hóa lớn này còn có ý nghĩa nâng cao dân khí nước nhà nữa. Nó tập hợp toàn dân vào một cuộc thử sức mới mang tinh thần mới. Điều này lớn lắm.
Như ông nói thì thấy toàn những điều tốt đẹp và lớn lao cả. Liệu có phải là mình nhận thức thêm ra ngoài văn bản không?
- Ở trên chúng ta vừa nói về tính chất Cương lĩnh văn hóa của bản Đề cương về văn hóa. Là cương lĩnh nghĩa là nó phải có tầm nhìn, có sức khái quát cao, nêu ra những đường hướng lớn có tác dụng định hướng chỉ đạo cho một lĩnh vực.
Về điều này thì đúng như vậy. Cho đến nay mấy phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng vẫn không phải đã đánh mất ý nghĩa vốn có của nó mà trên nền tảng của những tư tưởng ấy luôn bổ sung nhiều nội dung mới phù hợp với yêu cầu của đời sống.
Vâng, rất lớn, sức sống vẫn rất mạnh mẽ. Tám mươi năm mà không bị “lão hóa” và vẫn có những yếu tố đầy thanh xuân. Vậy sẽ còn tiếp tục bổ sung những gì vào những nội dung vốn có của nó không?
- Vấn đề anh đặt ra rất hay. Nếu chúng ta nghiên cứu, nhận thức về Đề cương về văn hóa và chỉ dừng lại ở đó thì chưa nhận thức được tinh thần khai phóng, cách mạng của Đề cương này. Tôi cho rằng tinh thần nhịp bước cùng thời đại và luôn thu hút vào trong nó những nội dung mới là tinh thần của văn bản ấy chứ không phải chúng ta nói thêm vào.
Các văn bản sau này do chính đồng chí Trường Chinh hay các lãnh tụ khác của Đảng và Nhà nước, các văn kiện đại hội Đảng hay các Nghị quyết chuyên đề về văn hóa đã làm công việc này. Vừa mở rộng, đào sâu, vừa nói rõ hơn và điều chỉnh những điều chưa có điều kiện nói ra trong văn bản ban đầu, vừa điều chỉnh nhận thức chưa đúng cả về lý thuyết lẫn tổ chức chỉ đạo và thực hiện trong thực tiễn. Đó cũng là một thực tiễn không thể nói khác được. Tính hành động và thực tiễn, áp sát thực tế là những điều dễ nhận thấy của Đề cương về văn hóa.
Tiếp tục nhận thức sâu hơn, tiệm cận bản chất vấn đề của văn hóa
Ông nghĩ thế nào khi có ý kiến cho rằng Đề cương về văn hóa về cơ bản chỉ phù hợp với những nhiệm vụ cách mạng đã qua. Nó thiên về tính kịp thời, thời sự chứ trong giai đoạn hiện nay nhiều nội dung của nó đã không cập nhật được. Ví như nội dung đại chúng trong phương châm đại chúng hóa chẳng hạn?
- Tôi cũng đã đọc được quan niệm ấy ở một vài chỗ. Nói cho công bằng thì có một số nội dung của Đề cương về văn hóa và cả những điều nói cho rõ thêm trong Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam cũng cần phải được minh định lại.
Như phân kỳ văn hóa và xác định tính chất văn hóa, vấn đề kế thừa di sản, vấn đề phương pháp sáng tác trong nghệ thuật, vấn đề nội dung tân dân chủ và hình thức dân tộc… Có cái do thời kỳ đó chưa cấp đủ cho ta những tư liệu để lý giải, do chưa có thực tiễn, có cái do trình độ mặt bằng lý luận chung lúc đó chưa đạt tới trình độ như bây giờ. Nhưng về đường hướng thì khó có thể nói nó đã lạc hậu.
Mà Đề cương về văn hóa chỉ nhằm vạch đường hướng, nguyên tắc, phương châm, chứ làm sao trong một đề cương nói cụ thể chi tiết mọi chuyện được. Còn về quan hệ giữa cái đại chúng và tinh hoa trong quan hệ này thì rõ ràng trong nhiều văn bản của Đảng đã bổ sung rồi, nhất là trong các Nghị quyết TW 5, 6, trong báo cáo trong Hội nghị toàn quốc về văn hóa năm 2022 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Hơn nữa nhận thức là một quá trình, trong đó có cả những vấn đề khoa học. Cái quan trọng nhất là ý nghĩa thực tiễn và định hướng thì Đề cương về văn hóa đã làm quá tốt. Cứ nhìn vào thực tiễn sẽ thấy cả hai mặt của vấn đề, phải vậy không ạ?
Ông có thể nói rõ hơn được không?
- Tôi nghĩ để làm rõ tính nhất quán và quá trình vận động của những tư tưởng cách mạng và khoa học của Đề cương về văn hóa cần một sự nghiên cứu nghiêm túc và chứng minh thuyết phục hơn là trong một cuộc trao đổi ngắn. Nhưng cứ thử đặt vấn đề này xem: Một tư tưởng, một học thuyết chỉ có thể chứng minh tính khoa học của nó ở trong chính đời sống. Mà về điều này thì cứ nhìn vào thực tiễn tiến trình văn hóa Việt Nam gần một thế kỷ nay chúng ta sẽ thấy đâu là điểm cần khẳng định, những gì chúng ta cần tiếp tục.
Tôi dùng từ chúng ta ở đây để nhấn mạnh điều này: Tôi và anh, và hầu hết Nhân dân nước ta vừa là sản phẩm, vừa là chủ nhân của nền văn hóa này. Văn hóa tác động sâu sắc vào đời sống chúng ta, mọi hành vi của chúng ta, cuộc đời chúng ta đều gắn với quá trình vận động của nó. Không ai có thể đứng ngoài, không ai không bị tác động. Tính chất toàn diện, sâu sắc của nó cũng bộc lộ ra ở điểm ấy.
Từ các phương châm ấy đất nước chúng ta đã lớn dậy, trưởng thành và vững vàng vượt qua những thử thách phải nói là kinh thiên động địa trong gần thế kỷ qua.
Từ những phương châm ấy chúng ta đang tiếp tục xây dựng những giá trị quốc gia, dân tộc, cộng đồng, gia đình, cá nhân để có thể phát triển đất nước bền vững, phồn vinh, đảm bảo cho mỗi người đều được sống hạnh phúc. Chúng ta lại tiếp tục nhận thức sâu hơn, tiệm cận bản chất vấn đề của văn hóa, con người hơn để đảm bảo cho mục tiêu sớm trở thành hiện thực hơn.
Xin cám ơn cuộc trò chuyện cởi mở của ông!
Chúng ta đã thống nhất với nhau là văn bản Đề cương về văn hóa chỉ đặt ra mục tiêu phác thảo những nét cơ bản của một đường hướng xây dựng một nền văn hóa mới cần có, nên có, phải có trong tương lai gần. Vậy mà suốt mấy chục năm nay những tư tưởng ấy vẫn tồn tại, vẫn tiếp tục soi đường cho quốc dân đi, xây dựng một xã hội vì đại chúng, đặt nền tảng cho xây dựng hệ giá trị quốc gia, dân tộc, cộng đồng, gia đình, con người, là cơ sở để chúng ta bước vào một “cuộc chơi lớn” mang tính toàn cầu hóa mà vẫn giữ được hồn cốt và bản lĩnh dân tộc. Vấn đề ấy lớn lắm.
PGS.TS Phạm Quang Long