Ông cũng chính là người ra quyết định lịch sử: Tiến hành khởi nghĩa tại Hà Nội vào ngày 19/8/1945, đánh đổ chính quyền tay sai, thành lập chính quyền cách mạng bằng lực lượng tại chỗ...
Quyết định mang tính lịch sử với Thủ đô
Đại tướng Nguyễn Quyết tên thật là Nguyễn Tiến Văn (sinh ngày 20/8/1922) ở xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Năm 1937, ông mới 15 tuổi nhưng đã rời quê lên Hà Nội tìm việc làm, kiếm sống. Ông xin vào làm việc tại Báo Đuốc Tuệ - một tờ báo tuyên truyền đạo Phật của Trung tâm Phật giáo Bắc Kỳ. Công việc chính của ông là làm thư ký kiêm phát hành báo. Nhờ đó, ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều người thuộc các giới và tầng lớp khác nhau, nhất là gần gũi công nhân, người lao động TP nên hiểu được nỗi khổ nhục của người dân mất nước cũng như tội ác của thực dân và tay sai.
Kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5/1938, Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại khu vực Nhà Đấu xảo Hà Nội với sự tham gia của hàng vạn người nhưng sau đó bị thực dân Pháp đàn áp. Ông buộc phải trở về quê nhà do bị mật thám theo dõi. Cũng chính lần trở về này, ông đã gặp đồng chí Nguyễn Văn Tích (tức Tạo) - một đảng viên cộng sản là cán bộ Liên tỉnh B (gồm các tỉnh: Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Kiến An...) và được giao nhiệm vụ vận động quần chúng xây dựng phong trào phản đế ở huyện Kim Động.
Chỉ một thời gian ngắn, ông đã vận động được rất nhiều người tham gia phong trào. Chính vì những đóng góp tích cực của mình, năm 1940 khi vừa tròn 18 tuổi, ông đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và phân công phụ trách Bí thư Thanh niên phản đế huyện Kim Động. Kể từ đây ông chính thức trở thành một chiến sĩ cộng sản suốt đời phụng sự sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Năm 1943, ông được chỉ định vào Ban Cán sự Đảng Hà Nội, đóng vai trò quan trọng trong việc vận động quần chúng và xây dựng lực lượng cách mạng. Ông cùng các đồng chí của mình xông xáo nhưng thận trọng xây dựng được nhiều cơ sở mới ở nội, ngoại thành Hà Nội, tích cực làm công tác phát triển đảng.
Mùa hè năm 1944, Đại tướng Nguyễn Quyết được T.Ư Đảng triệu tập tham dự một lớp học quân sự diễn ra gần một tháng tại tỉnh Thái Nguyên để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Khi trở lại Hà Nội, ông được Thành ủy phân công phụ trách công tác quân sự. Nhưng chỉ vài tháng sau, đồng chí lại được chỉ định làm Bí thư Thành ủy Hà Nội thay đồng chí Lê Quang Đạo do bị lộ nên T.Ư điều đi nhận nhiệm vụ khác.
Mới chỉ vài tháng làm nhiệm vụ, đêm 17/8/1945, dưới sự chủ trì của Bí thư Nguyễn Quyết, Thành ủy Hà Nội họp và ra quyết định lịch sử: Bằng lực lượng tại chỗ, Hà Nội khởi nghĩa vào ngày 19/8/1945. Nắm vững thời cơ, hiểu rõ thế và lực quân địch và tình hình cách mạng, Hà Nội khởi nghĩa đúng kế hoạch, giành thắng lợi triệt để, như là ánh sáng soi tới các địa phương khác cùng quật khởi vùng lên.
Sự kiện này đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam trở thành bài học khởi nghĩa bản lĩnh, sáng tạo, kiên quyết, kịp thời và triệt để hành động theo Chỉ thị của Đảng và Bác Hồ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Đặt trong bối cảnh năm 1945, Hà Nội - vị trí chiến lược, đầu não của quân Pháp càng thấy khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội mang ý nghĩa quyết định để Cách mạng Tháng Tám thành công. Sau này đồng chí Trường Chinh đánh giá rất cao Bí thư Nguyễn Quyết và tập thể Thành ủy Hà Nội là “thông tuệ”, “sắc sảo”.
Trọn cuộc đời cống hiến cho cách mạng
Như các nhà nghiên cứu đã nhận định, thắng lợi hoàn toàn của cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội đã chứng minh quyết định của tập thể lãnh đạo Thành ủy hoàn toàn đúng đắn. Quyết định này cũng đã giúp cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội có được thắng lợi trọn vẹn, không đổ máu, trở thành niềm tin, sự cổ vũ lớn lao đối với các địa phương trong toàn quốc, nhất là các TP lớn như Huế, Sài Gòn.
Sau khi hoàn thành việc xây dựng, củng cố 5 tiểu đoàn chủ lực ở Hà Nội và 2 chi đội ở các tỉnh lân cận, Đại tướng Nguyễn Quyết đề nghị T.Ư phân công vào Nam chiến đấu. Từ năm 1946 - 1950, Đại tướng Nguyễn Quyết đã nắm giữ nhiều cương vị quan trọng như Chính ủy Trung đoàn 108, phụ trách mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng, chiến trường chính của Liên khu 5. Những chiến công vang dội tại đèo Hải Vân, Gò Cả, diệt đồn Núi Lở, cứ điểm Thu Bồn... dưới sự chỉ huy của Đại tướng đã khiến quân địch khiếp sợ.
Trong chiến cuộc Đông - Xuân 1953 - 1954, Đại tướng Nguyễn Quyết là một trong ba chỉ huy chiến dịch, được phân công trực tiếp chống chiến dịch Át-lăng, chiến dịch lớn chưa từng có của thực dân Pháp nhằm “xóa” vùng tự do Liên khu 5.
Gần trọn cuộc đời cống hiến cho cách mạng, cho Đảng; hết lòng phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân với những chiến công đặc biệt xuất sắc, Đại tướng Nguyễn Quyết đã được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.
Trong những ngày tháng 8/2024, lãnh đạo TP Hà Nội đã tới thăm, chúc mừng Đại tướng Nguyễn Quyết. Vị tướng 102 tuổi đời khi đó đã chia sẻ hồi tưởng về Mùa Thu cách mạng cách đây 79 năm, khi Hà Nội đứng lên giành chính quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Theo Đại tướng Nguyễn Quyết, thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đúng như Bác Hồ đã dạy là cuộc cách mạng mang tính nhân văn sâu sắc, đầy tính sáng tạo, chủ động, tự tin nhưng rất độc đáo, không theo một mẫu nào có sẵn.
70 năm sau ngày giải phóng, chứng kiến Thủ đô Hà Nội ngày càng phát triển, Đại tướng Nguyễn Quyết tin tưởng, mong muốn, các thế hệ người Hà Nội hôm nay không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, để thêm hiểu, thêm yêu và tự hào về lịch sử vẻ vang của Thủ đô; kiên định, vững tin vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng. Từ đó đóng góp tâm sức, trí tuệ để đưa Thủ đô và đất nước ngày càng phát triển.
Đại tướng Nguyễn Quyết
(Nguyễn Tiến Văn)
(Sinh năm: 1922)
Quê quán: xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên
Tham gia cách mạng: 1939
Nhập ngũ: tháng 8/1945
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam: từ năm 1940
Cấp bậc cao nhất: Đại tướng (1990)
Quá trình công tác
1942: Ủy viên Ban cán sự Đảng tỉnh Hưng Yên;
1943 - 1945: Ủy viên Ban Cán sự Đảng, Bí thư Thành ủy Hà Nội, Ủy viên quân sự trong Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội, ủy viên chính trị Ủy ban quân sự Hà Nội, Chính trị viên Chi đội 2 Vệ quốc quân;
1946: Chính trị viên Chi đội 1 (chi đội chủ lực của Ủy ban kháng chiến miền Nam), Trưởng phòng Chính trị, Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Đại đoàn 31;
1947 - 1952: Chính ủy Mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng; Ủy viên quân sự trong Ủy ban Kháng chiến Liên tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; Chính ủy Trung đoàn 108 và Trung đoàn 803;
1953 - 1955: Chủ nhiệm Chính trị Liên khu 5; Phó Chính ủy, Chính ủy Đại đoàn 305;
1955 - 1963: Quyền Chính ủy rồi Chính ủy Quân khu Tả Ngạn;
1964 - 1968: Phó Chính ủy, Chính ủy Quân khu 3; Chính ủy Quân khu Tả Ngạn; Phó Chính ủy Quân khu Trị - Thiên kiêm Chính ủy Mặt trận B8 (Quân khu Trị - Thiên);
1969 - 1976: Chính ủy Quân khu Tả Ngạn, Học viện Quân sự, Quân khu 3;
1977 - 1980: Chính ủy kiêm Tư lệnh Quân khu 3;
1981 - 1986: Tư lệnh, Bí thư Đảng uỷ Quân khu 3;
4/1986 - 1987: Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;
1987 - 1991: Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị; Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương);
1992: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước.
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá IV, V, VI (Ủy viên Ban Bí thư khoá VI);
Đại biểu Quốc hội các khóa IV, VII, VIII.
Phần thưởng cao quý
- Huân chương Sao vàng (2007);
- Huân chương Hồ Chí Minh;
- Huân chương Quân công hạng Nhất;
- Huân chương Chiến công hạng Nhất;
- Huân chương Chiến thắng hạng Nhất...
(nguồn: Cổng TTĐT BQP)