Bất cập ngay từ luật
Tâm lý chung của nhiều người khi thành lập doanh nghiệp (DN) luôn mong muốn phát triển. Chính vì thế, không ít DN khi gặp khó khăn, buộc phải phá sản đã không quan tâm, thậm chí không biết đến Luật Phá sản để thực hiện nghĩa vụ cũng như bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, thực tế, những quy định trong luật còn nhiều bất cập khiến DN không mặn mà.
Cần sửa đổi Luật Phá sản để góp phần lành mạnh hóa hoạt động doanh nghiệp.Trong ảnh: Tàu do Vinashin đóng chuẩn bị hạ thủy. Ảnh: Huy Hùng
Theo thống kê của Bộ KH&ĐT, trong tổng số 623.700 DN đăng ký thành lập năm 2011, chỉ có 457.000 DN hoạt động, đồng nghĩa với hơn ¼số DN đăng ký hoạt động hiện không rõ về tình trạng pháp lý, có tồn tại hay không? Trong khi đó, có đến 12/52 Tòa án Nhân dân tỉnh báo cáo, kể từ khi Luật Phá sản năm 2004 có hiệu lực đến nay, không thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN nào.
"Thực tế, đối với Luật Phá sản, điều đầu tiên cần quan tâm đó là quan điểm về việc DN như thế nào thì bị coi là lâm vào tình trạng phá sản. Song, ngay cả sau khi đã sửa đổi, Luật Phá sản vẫn quy định chưa rõ, dẫn đến việc triển khai trên thực tế gặp rất nhiều khó khăn" - đại diện Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết.
Ông Trần Hữu Huỳnh - Phó Tổng Thư ký VCCI nêu ví dụ: Điều 3 của Luật Phá sản quy định: "DN, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản" là chưa rõ ràng, chưa định lượng cụ thể về số lượng của khoản nợ mà DN không thể thanh toán được, các tiêu chí để xác định các khoản nợ đến hạn, số tiền nợ quá hạn, thời hạn nợ quá hạn… Điều này khiến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền gặp khó khăn trong việc ra quyết định mở thủ tục phá sản.
Một khó khăn nữa trong việc xác định DN lâm vào trình trạng phá sản là theo quy định của luật, bên cạnh đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, người nộp đơn phải nộp kèm theo một số tài liệu như: Báo cáo tình hình hoạt động, bảng kê chi tiết tài sản, danh sách người mắc nợ của DN. Tuy nhiên, trong thực tế, người nộp đơn rất khó có được những tài liệu này, trong khi tòa án không đủ điều kiện để kiểm tra hoạt động tài chính của DN.
Hơn nữa, do Luật Phá sản đã bỏ sót chủ nợ sở hữu các khoản nợ mới và người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho DN lâm vào tình trạng phá sản, nên trong quá trình giải quyết gặp rất nhiều khó khăn, thậm chí không giải quyết được. Một vấn đề nữa liên quan đến thanh lý tài sản đó là, tài sản bán đấu giá, theo quy định nếu sau hai lần giảm giá mà vẫn không bán được thì các chủ nợ có quyền nhận tài sản theo giá đã giảm; nếu các chủ nợ không nhận thì trả lại tài sản đó cho DN.
Theo các chuyên gia, quy định này không khả thi, vì thủ tục thanh lý tài sản là thủ tục cuối cùng trước khi thẩm phán ban hành quyết định tuyên bố DN phá sản. Vì thế, việc chủ nợ trả lại tài sản cho DN khiến DN không kết thúc được thủ tục thanh lý tài sản, không thể bị tuyên bố phá sản.
Cách nào tăng tính thực thi?
Cần xây dựng Luật Phá sản theo hướng rút gọn thủ tục, tạo động lực để thúc đẩy các DN sử dụng thủ tục phá sản khi rơi vào tình trạng phá sản theo quy định, đó là những yêu cầu cấp thiết hiện nay. Theo ông Trần Hữu Huỳnh, trong thực tế, để tiến hành xong thủ tục phá sản phải mất cả năm. Việc kéo dài thời gian giải quyết, khiến các chủ nợ và con nợ trở nên "mệt mỏi" và khả năng thu hồi nợ với giá trị lớn sẽ gặp khá nhiều khó khăn. Đây cũng là lý do mà cả chủ nợ và con nợ không muốn sử dụng thủ tục phá sản.
Tiếp đó, cần tăng cường năng lực của các chủ thể liên quan đến quá trình giải quyết phá sản, đặc biệt với các thẩm phán và các chủ thể thi hành quyết định trong thủ tục phá sản. Bởi trong quá trình giải quyết phá sản, ngoài những yêu cầu về trình độ pháp lý, thẩm phán còn phải có trình độ hiểu biết về nhiều lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính - kế toán. Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có thẩm phán chuyên trách về phá sản mà thường kiêm nhiệm.
Ngoài ra, cần phải sửa đổi các văn bản pháp luật có liên quan bên cạnh sửa đổi Luật Phá sản để đảm bảo tính thống nhất và thuận lợi khi áp dụng.