Thua “đậm” trên sân nhà
Ở thời điểm hiện tại, thị trường truyền hình trả tiền qua internet (OTT) đang rất sôi động và đông đúc khi có tới 22 doanh nghiệp cùng cạnh tranh để cung cấp dịch vụ này. Bên cạnh những tên tuổi nổi bật trong nước: MyTV (VNPT), Next TV (Viettel), FPT Play (FPT)… còn có sự tham gia của những thương hiệu nổi tiếng thế giới như: Netflix, Apple TV, IQIYI, iFlix …
Tuy có sự tương đồng với số lượng nhưng nếu xét về doanh thu, doanh nghiệp OTT Việt đang vô cùng lép vế khi so sánh với thương hiệu ngoại. Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2022, tổng thu của các doanh nghiệp OTT Việt là 370 tỷ đồng thì con số này với OTT ngoại là 2.610 tỷ đồng. Chênh lệch tới hơn 7 lần.
Tình trạng doanh nghiệp Việt đang thua ngay trên sân nhà đã kéo dài từ nhiều năm với mức độ chênh lệch về doanh thu cũng như số lượng người dùng ngày càng gia tăng.
Có thể lấy ví dụ, trường hợp của Netflix, dịch vụ OTT nổi bật nhất trong nước đang có khoảng 600.000 thuê bao đến từ Việt Nam, chỉ cần 1/2 trong số này là người dùng trả tiền theo năm với mức phí khoảng 2,4 triệu đồng thì tổng số tiền thu được lên tới 35 triệu USD tương đương khoảng 819 tỷ đồng. Con số này còn lớn hơn toàn bộ doanh thu dự kiến của mảng OTT trong nước trong năm 2022 với 740 tỷ đồng.
Có nhiều nguyên nhân để lý giải cho tình trạng trên. Đơn cử như sự thua kém về nguồn tài chính đã khiến kho nội dung, mảng thu hút người dùng chính của OTT, của doanh nghiệp Việt không có khả năng cạnh tranh với doanh nghiệp ngoại. Việc Netflix hay Amazon sẵn sàng bỏ hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD để làm một seri phim truyền hình phục vụ khách hàng của mình là chuyện rất bình thường. Nhưng doanh nghiệp Việt lại chỉ thường mua lại các bộ phim nước ngoài có kinh phí thấp hoặc thậm chí là miễn phí bởi đã được công chiếu được 2 - 3 năm.
Không chỉ bị bỏ xa về chất lượng nội dung, doanh nghiệp OTT Việt còn vô cùng “thiệt thòi” khi phải tuân thủ nghiêm những quy định của pháp luật, điều mà doanh nghiệp ngoại không hề bị ràng buộc.
Trao đổi với Kinh tế & Đô thị, lãnh đạo một doanh nghiệp OTT TV (xin giấu tên) cho biết, hiện dịch vụ trong nước đang bị ràng buộc bởi khá nhiều quy định như: Giấy phép hoạt động, phân bố tỷ lệ kênh có nội dung tiếng Việt và kênh nước ngoài, phải kiểm duyệt nội dung trước khi đăng tải… Đồng thời, việc đóng thuế cũng phải thực hiện đúng và đầy đủ. Trong khi đó, các dịch vụ OTT TV ngoại lại không cần quan tâm tới những vấn đề này.
Cũng chính vì không bị ràng buộc bởi nhiều chi phí có liên quan, nên hiện tại, đang có xu hướng các công ty sản xuất phim, nội dung giải trí ưu tiên hợp tác với OTT TV ngoại, mặc dù, kinh phí mua bản quyền thấp nhưng bù lại có thể kiếm được lợi nhuận tốt từ quảng cáo. Cùng với những nội dung này, nếu được bán cho doanh nghiệp OTT TV nội thì mức kinh phí thường rất cao, thậm chí, vượt qua khả năng sinh lời của nội dung.
Theo Tổng thư ký Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam Lê Đình Cường, thực trạng hiện nay của các dịch vụ OTT TV ngoại là đều thiếu tuân thủ pháp luật của nước sở tại. Có thể kể đến như: Hoạt động không giấy phép, không chịu kiểm duyệt nội dung cũng như bỏ qua các quy định tại các Luật Báo chí, Luật Điện ảnh và Luật Quảng cáo.
Do đó, để đảm bảo pháp luật Việt Nam được tuân thủ cũng như đảm bảo công bằng cho các doanh nghiệp OTT TV trong nước, đã đến lúc cần gia tăng chế tài quản lý với doanh nghiệp ngoại. Có thể kể đến như bắt buộc OTT TV ngoại phải đăng ký cấp phép, nếu không có thì cương quyết không cho tham gia cung cấp dịch vụ vào thị trường Việt Nam. Tăng cường chế tài để kiểm soát việc tuân thủ các quy định về kiểm duyệt nội dung, ông Lê Đình Cường kiến nghị.
Nội và ngoại sẽ chung một mặt bằng pháp lý
Tình trạng doanh nghiệp OTT Việt đang bị cạnh tranh không bình đẳng ngay trên sân nhà nói trên sẽ được cải thiện đáng kể với quy định pháp luật mới có hiệu lực từ 1/1/2023. Theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 71/2022/NĐ-CP (Nghị định 71) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 06/2016/NĐ-CP ngày 18/01/2016 về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình. Trong đó, có nhiều quy định rằng buộc rõ ràng trách nhiệm của doanh nghiệp OTT ngoại.
Một trong những điểm nhấn quan trọng của Nghị định 71 là những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ OTT xuyên biên giới tới người dùng tại Việt Nam phải có giấy phép hoạt động. Quy trình cấp phép cho doanh nghiệp nước ngoài sẽ trải qua các bước cũng như phải đáp ứng các điều kiện tương tự với doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp OTT trong nước nếu chỉ cung cấp các nội dung theo yêu cầu (VOD) thì sẽ chỉ phải kê khai theo các biểu mẫu có sẵn của Bộ TT&TT thay vì phải lập hẳn Đề án như trước đây. Việc bổ sung quy định này sẽ tạo thuận lợi đáng kể cho các doanh nghiệp trong nước, có những điều kiện về kỹ thuật tương đương như doanh nghiệp nước ngoài, được tham gia cung cấp dịch vụ.
Đối với phân loại nội dung VOD như phim, chương trình thể thao, giải trí cũng được nới lỏng với doanh nghiệp Việt và thắt chặt cho doanh nghiệp ngoại. Theo đó, thay vì tất cả nội dung VOD đều phải được cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình biên tập trước khi cung cấp trên dịch vụ thì nay doanh nghiệp sẽ được chủ động phân loại theo tiêu chí của do Bộ VHTT&DL quy định. Điều này sẽ giúp tăng đáng kể thời gian sản nội dung của doanh nghiệp Việt.
Riêng về hoạt động biên dịch phim, chương trình nước ngoài, cả doanh nghiệp Việt và ngoại đều phải chịu chế tài là phải bảo đảm tôn trọng, bảo tồn sự trong sáng của tiếng Việt, bảo đảm không vi phạm các điều cấm theo quy định pháp luật Việt Nam.
Cũng theo quy định của Nghị định 71, các kênh chương trình nước ngoài không được phép đăng tải nội dung quảng cáo được cài đặt sẵn. Các nội dung quảng cáo phải được cài đặt tại Việt Nam. Cơ quan báo chí được cấp phép biên tập là đầu mối thực hiện cài đặt quảng cáo và chịu trách nhiệm về nội dung, thời lượng, đảm bảo tuân thủ quy định của pháp luật về quảng cáo như đối với kênh truyền hình trả tiền.
Ngoài ra, không chỉ doanh nghiệp trong nước mà cả doanh nghiệp ngoại được phép cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền đều phải có trách nhiệm báo cáo định kỳ, đột xuất hoạt động sản xuất, liên kết sản xuất chương trình, kênh chương trình. Các hoạt động biên tập, biên dịch nội dung, hoạt động cung cấp kênh chương trình nước ngoài trên cũng phải đáp ứng theo quy định của Bộ TT&TT.
Theo đánh giá, sự ra đời của Nghị định số 71 sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh dịch vụ trên cùng mặt bằng pháp lý. Bên cạnh đó là bảo đảm sự công bằng trên nguyên tắc không bổ sung thêm thủ tục hành chính.