Theo đó, trong lĩnh vực Thương mại hàng hóa, đối với xuất khẩu (XK) của Việt Nam, ngay khi Hiệp định có hiệu lực, EU sẽ xóa bỏ thuế nhập khẩu (NK) đối với khoảng 85,6% số dòng thuế, tương đương 70,3% kim ngạch XK của Việt Nam sang EU. Sau 7 năm kể từ khi EVFTA có hiệu lực, EU xóa bỏ thuế NK với 99,2% số dòng thuế, tương đương 99,7% kim ngạch XK của Việt Nam. Với 0,3% kim ngạch XK còn lại, EU cam kết dành cho Việt Nam hạn ngạch thuế quan với thuế NK trong hạn ngạch là 0%. Đối với các nhóm hàng quan trọng, cam kết của EU như sau: Về dệt may, giày dép và thủy sản (trừ cá ngừ đóng hộp và cá viên), EU sẽ xóa bỏ hoàn toàn thuế NK cho các sản phẩm của Việt Nam trong vòng 7 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực. Với cá ngừ đóng hộp, EU đồng ý dành cho Việt Nam một lượng hạn ngạch thuế quan thỏa đáng. Về gạo, EU dành cho Việt Nam lượng hạn ngạch đáng kể với gạo xay xát, gạo chưa xay xát và gạo thơm; gạo NK theo hạn ngạch này được miễn thuế hoàn toàn. Riêng gạo tấm, thuế NK sẽ được xóa bỏ theo lộ trình. Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế NK về 0% trong vòng 7 năm. Về mật ong, EU xóa bỏ thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực và không áp dụng hạn ngạch thuế quan. Với toàn bộ sản phẩm rau củ quả, rau củ quả chế biến, nước hoa quả khác, túi xách, vali, sản phẩm nhựa, gốm sứ thủy tinh, cơ bản được xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Đối với XK của EU, cam kết của Việt Nam đối với các mặt hàng chính là: Với ô tô, xe máy, Việt Nam cam kết đưa thuế NK về 0% sau từ 9 - 10 năm, riêng xe máy có dung tích xy-lanh trên 150 cm3 có lộ trình xóa bỏ thuế NK là 7 năm. Về rượu vang, rượu mạnh, bia, thịt lợn và thịt gà, Việt Nam đồng ý xóa bỏ thuế NK trong thời gian tối đa 10 năm. Về thuế XK, Việt Nam cam kết xóa bỏ phần lớn thuế sau lộ trình nhất định, chỉ bảo lưu thuế XK đối với một số sản phẩm quan trọng, trong đó có dầu thô và than đá. Trong các nội dung khác liên quan tới thương mại hàng hóa, Việt Nam và EU cũng thống nhất các nội dung liên quan tới thủ tục hải quan, các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS), hàng rào kỹ thuật trong thương mại (TBT), phòng vệ thương mại..., tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên hợp tác, tạo thuận lợi cho XK, NK của các DN. Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ và đầu tư: Cam kết của Việt Nam và EU nhằm tạo ra một môi trường đầu tư cởi mở, thuận lợi cho hoạt động của DN hai bên. Cam kết của Việt Nam có đi xa hơn cam kết trong WTO. Cam kết của EU cao hơn trong cam kết trong WTO và tương đương với mức cam kết cao nhất của EU trong những Hiệp định FTA gần đây của EU. Các lĩnh vực mà Việt Nam cam kết thuận lợi cho các nhà đầu tư EU gồm một số dịch vụ chuyên môn, dịch vụ tài chính, dịch vụ viễn thông, dịch vụ vận tải, dịch vụ phân phối. Hai bên cũng đưa ra cam kết về đối xử quốc gia trong lĩnh vực đầu tư, đồng thời thảo luận về nội dung giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư và nhà nước. Trong lĩnh vực mua sắm của Chính phủ: Việt Nam và EU thống nhất các nội dung tương đương với Hiệp định mua sắm của Chính phủ (GPA) của WTO. Với một số nghĩa vụ như đấu thầu qua mạng, thiết lập cổng thông tin điện tử để đăng tải thông tin đấu thầu..., Việt Nam có lộ trình để thực hiện. EU cũng cam kết dành hỗ trợ kỹ thuật cho Việt Nam để thực thi các nghĩa vụ này. Việt Nam bảo lưu có thời hạn quyền dành riêng một tỷ lệ nhất định giá trị các gói thầu cho nhà thầu, hàng hóa, dịch vụ và lao động trong nước. Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (SHTT): Cam kết về SHTT gồm cam kết về bản quyền, phát minh, sáng chế, cam kết liên quan tới dược phẩm và chỉ dẫn địa lý... Về cơ bản, các cam kết về SHTT của Việt Nam là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Về chỉ dẫn địa lý, khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ bảo hộ trên 160 chỉ dẫn địa lý của EU (bao gồm 28 thành viên) và EU sẽ bảo hộ 39 chỉ dẫn địa lý của Việt Nam. Các chỉ dẫn địa lý của Việt Nam đều liên quan tới nông sản, thực phẩm, tạo điều kiện cho một số chủng loại nông sản của Việt Nam xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình tại thị trường EU. Trong các nội dung khác, Hiệp định EVFTA cũng bao gồm các chương liên quan tới cạnh tranh, DN nhà nước, phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, pháp lý - thể chế. Các nội dung này phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt Nam, tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên tăng cường hợp tác, thúc đẩy sự phát triển của thương mại và đầu tư.
Tháng 10/2010, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và Chủ tịch châu Âu (EU) đã đồng ý khởi động đàm phán Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU sau khi hai bên hoàn tất các công việc kỹ thuật. Sau đó, Việt Nam và EU chính thức tuyên bố khởi động đàm phán Hiệp định EVFTA vào ngày 26/6/2012. Sau gần 3 năm đàm phán, với 14 phiên chính thức và nhiều phiên giữa kỳ ở cấp bộ trưởng, cấp trưởng đoàn và các nhóm kỹ thuật, hai bên đã đạt được thỏa thuận nguyên tắc về toàn bộ các nội dung cơ bản của Hiệp định. EVFTA là một Hiệp định toàn diện, chất lượng cao, cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đồng thời phù hợp với các quy định của WTO. Các nội dung chính của Hiệp định gồm: Thương mại hàng hóa (lời văn về quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), quy tắc xuất xứ, hải quan và thuận lợi hóa thương mại, SPS, TBT, thương mại dịch vụ (lời văn về quy định chung và cam kết mở cửa thị trường), đầu tư, phòng vệ thương mại, cạnh tranh, DN nhà nước, mua sắm của Chính phủ, SHTT (gồm cả chỉ dẫn địa lý), phát triển bền vững, hợp tác và xây dựng năng lực, các vấn đề pháp lý. (Ban Chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế) |