Bổ sung thêm than cho cấp điện năm 2024
Để đảm bảo cân đối cung – cầu điện năm 2024, EVN đã tính toán cân đối so với nhu cầu tăng trưởng 8,96% so với năm 2023 và 2 kịch bản lưu lượng nước về các hồ thủy điện.
Kịch bản 1, nước về các hồ thủy điện ở mức bình thường (tương ứng tần suất 65%). Kịch bản 2, cực đoan (lưu lượng nước về kém như đã diễn ra trong năm 2023 tương ứng tấn suất khoảng 90%). Trong kịch bản lưu lượng nước về các hồ thủy điện bình thường, hệ thống điện quốc gia về cơ bản đáp ứng cung ứng điện, tuy nhiên do công suất dự phòng của hệ thống điện miền Bắc thấp nên vẫn phải đối mặt với tình trạng căng thẳng về công suất đỉnh tại một số thời điểm trong ngày của các tháng nắng nóng.
Trường hợp lưu lượng nước về cực đoan như mùa khô năm 2023, việc đảm bảo cung cấp điện đặc biệt đối với khu vực miền Bắc sẽ gặp khó khăn hơn, có thể xuất hiện tình trạng thiếu công suất (khoảng 420 - 1.770MW) trong một số giờ cao điểm của tháng 6 và 7.
Khi đó cần thực hiện dịch chuyển biểu đồ sử dụng điện hàng ngày của một số khách hàng sử dụng nhiều điện năng sang thời điểm ngoài cao điểm. Hiện EVN đang tập trung vào các giải pháp đảm bảo độ khả dụng, sẵn sàng của các nhà máy của EVN và các đơn vị thành viên; hạn chế tối đa sự cố các nhà máy, đặc biệt là các tổ máy nhiệt điện than miền Bắc; tổ chức thực hiện ngay các giải pháp khắc phục tình trạng suy giảm công suất các tổ máy do yếu tố nhiệt độ môi trường, nước làm mát, thủy triều thấp; làm việc với Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tổng Công ty Đông Bắc và PVN/PVGas để đảm bảo đủ nhiên liệu cho sản xuất điện theo nhu cầu của hệ thống; lập lịch huy động cao các nhà máy nhiệt điện ngay từ đầu năm 2024 (nhất là khu vực miền Bắc) ở thời điểm cuối mùa khô năm 2024 một cách tối ưu theo quy định.
Đồng thời, EVN đề nghị Ban chỉ đạo Phòng chống Thiên tai Trung ương cho phép tích nước các hồ thủy điện miền Bắc sớm ngay từ tháng 9/2023 với mục tiêu tích đầy hồ vào cuối năm 2023… Đôn đốc các Chủ đầu tư các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp khẩn trương hoàn thiện các thủ tục pháp lý để sớm đưa các dư án vào vận hành thương mại.
Tổng Giám đốc EVN Trần Đình Nhân cho biết, theo tính toán cung cầu năng lượng giai đoạn 2024-2030, dự kiến các nhà máy của EVN sẽ được huy động rất cao khoảng 40-42 tỷ kWh/năm, tương ứng với khối lượng than là 27,2 - 28 triệu tấn, vượt quá khả năng cấp trong hợp đồng dài hạn. Do đó, cần phải bổ sung thêm than cho vận hành các nhà máy điện than hiện hữu, đáp ứng nhu cầu huy động trong các năm, giai đoạn 2024-2030.
“EVN sẽ tập trung nguồn lực để đẩy nhanh tiến độ những công trình lưới điện phục vụ giải tỏa công suất các nguồn điện và bảo đảm cấp điện trong năm 2024-2025, đặc biệt là 4 dự án 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên), các công trình phục vụ nhập khẩu điện từ Lào theo hiệp định liên chính phủ cũng như đôn đốc chủ đầu tư các dự án năng lượng tái tạo chuyển tiếp khẩn trương hoàn thiện thủ tục pháp lý để sớm đưa các dự án vào vận hành thương mại” - ông Trần Đình Nhân cho hay.
Huy động tối đa nguồn lực
Để đảm bảo nhiên liệu than năm 2024 và các năm tiếp theo, hiện EVN đang làm việc với TKV và Tổng Công ty Đông Bắc đảm bảo cung cấp toàn bộ than cho sản xuất điện của các nhà máy sử dụng than antraxit của EVN và các EVNGENCO từ 1/1/2024 đảm bảo đủ nhu cầu vận hành và chất lượng theo yêu cầu của bên mua.
Qua đó, nâng tổng khối lượng than cung cấp hàng năm trong hợp đồng dài hạn hiện hữu lên khoảng 27-28 triệu tấn, đáp ứng nhu cầu huy động trong thời gian tới. Dự kiến kế hoạch năm 2024, TKV và Tổng Công ty Đông Bắc cung cấp than cho điện là 56,48 triệu tấn, trong đó TKV cấp hoảng 46,48 triệu tấn và Tổng Công ty Đông Bắc khoảng 10 triệu tấn. Đối với các nhà máy EVN, TKV cung cấp 20,35 triệu tấn, Tổng Công ty Đông Bắc cung cấp 8,35 triệu tấn.
Chủ tịch Hội đồng thành viên TKV Ngô Hoàng Ngân cho biết, kế hoạch cung cấp than cho Điện năm 2024 sẽ được triển khai thực hiện theo chỉ đạo và các giải pháp.
Để có đủ nguồn cung ứng 46,48 triệu tấn than cho sản xuất điện, trong đó có 31 triệu tấn than pha trộn giữa than trong nước và than nhập khẩu, TKV dự kiến sẽ cần nhập khẩu khoảng 17 triệu tấn than. Hiện, EVN, TKV và Tổng Công ty Đông Bắc đang tiến hành thảo luận để đi đến ký kết thỏa huận Hợp tác cung cấp than dài hạn dự kiến sẽ thực hiện từ năm 2024 trở đi đến hết thời gian vận hành nhà máy.
Về nhiên liệu khí cho phát điện năm 2024 và các năm tiếp theo, EVN kiến nghị Bộ Công Thương báo cáo Thủ tướng Chính phủ giao PVN là đơn vị chịu trách nhiệm cung cấp nhiên liệu khí cho phát điện (bao gồm cả khí LNG khai thác trong nước và nhập khẩu).
Việc bổ sung khí LNG cho các nhà máy điện được thực hiện trên cơ sở đấu thầu lựa chọn các nhà cung cấp LNG, đảm bảo công khai, cạnh tranh minh bạch. Khí thiên nhiên được ưu tiên cung cấp cho các nhà máy điện, việc phân bổ khí cho các nhà máy điện sử dụng chung hạ tầng được thực hiện phân bổ đều trên tỷ trọng sử dụng đảm bảo bình đẳng và tính cạnh tranh trên thị trường.
Sau khi được sự đồng ý của Thủ tướng, EVN sẽ triển khai ngay việc đàm phán bổ sung khí LNG để kịp tăng nguồn cung khí cho năm 2024. Liên quan đến vấn đề này, đại diện PVN cho biết, Tập đoàn đã có kế hoạch sản xuất điện, kế hoạch cung cấp khí trong năm 2024, kế hoạch dự kiến là 27,50 tỷ kWh.
Về khả năng cung cấp khí có phát điện dự kiến năm 2024 theo từng lĩnh vực. Khu vực Đông Nam Bộ là 3,06 tỷ Sm3, khu vực Tây Nam Bộ là 1,41 tỷ Sm3.
Để bảo đảm năng lượng cho nền kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đã có chỉ đạo yêu cầu các đơn vị không được để thiếu điện, thiếu than, xăng dầu và khí đốt cho nền kinh tế trong mọi tình huống.
Trong đó, yêu cầu EVN khắc phục triệt để những hư hỏng, sự cố ở các nhà máy, tổ máy (nhiệt điện, thủy điện) trong phạm vi quản lý, bảo đảm các nhà máy đủ khả năng hoạt động tối đa công suất; khẩn trương đàm phán giá huy động các dự án điện chuyển tiếp.
Đối với TKV, Bộ trưởng yêu cầu đơn vị này bảo đảm nguồn cung than cho các nhà máy nhiệt điện đã có hợp đồng; đối với PVN, yêu cầu tăng năng lực khai thác, chế biến sản phẩm dầu khí phục vụ nhu cầu phát điện và nhu cầu của nền kinh tế, kể cả nguồn nguyên liệu thô lẫn thành phẩm cho thị trường theo đúng sản lượng, khối lượng đã cam kết và các hợp đồng đã ký.