Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 1,1% lên 9.730 USD/tấn, trong khi hợp đồng đồng tháng 11 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) SCFcv1 tăng 1,3% ở mức 77.620 Nhân dân tệ (10.910,42 USD)/tấn.
Trung Quốc đã cắt giảm lãi suất cho vay chuẩn như dự đoán tại lần cố định hàng tháng, sau khi giảm các lãi suất chính sách khác vào tháng trước như một phần của gói biện pháp kích thích nhằm phục hồi nền kinh tế.
Dữ liệu cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại cũng củng cố hy vọng rằng Trung Quốc sẽ đưa ra nhiều biện pháp kích thích hơn, có khả năng giúp nâng cao nhu cầu kim loại vật chất.
Nhà phân tích Matt Huang tại công ty môi giới BANDS Financial cho biết: "Mọi người đang kỳ vọng điều gì đó vào năm tới".
Bất chấp mức tăng của ngày thứ Hai, giá đồng tại LME vẫn thấp hơn 4,2% so với mức đỉnh gần bốn tháng là 10.158 USD đạt được vào ngày 30/9, trong khi giá đồng tại Thượng Hải giảm 2,3% trong cùng kỳ.
Lượng đồng tồn kho tại các kho SHFE đã tăng 8% vào tuần trước lên 168.425 tấn, mức cao nhất kể từ ngày 13/9, làm dấy lên lo ngại về nhu cầu vật chất trong những tháng tiêu thụ mạnh theo truyền thống tại Trung Quốc.
"Hầu hết các công ty giao dịch và nhà máy luyện kim mà chúng tôi gặp... tuần trước đều bi quan về giá trong bối cảnh mức tồn kho hạ nguồn cao và lượng tồn kho xã hội tích lũy" - Huang cho biết, đồng thời lưu ý rằng có sự lạc quan về nhu cầu đồng từ các lĩnh vực chuyển đổi năng lượng xanh.
Nhôm CMAl3 của LME tăng 1% lên 2.637,50 USD/tấn, niken CMNI3 tăng 0,9% lên 17.055 USD, kẽm CMZN3 tăng 1,1% lên 3.123 USD, thiếc CMSN3 tăng 0,2% lên 31.380 USD, trong khi chì CMPB3 giảm 0,1% xuống 2.071 USD.
Nhôm SAFcv1 của SHFE tăng 1,7% lên 20.940 Nhân dân tệ/tấn, niken SNIcv1 tăng 1,4% lên 130.720 Nhân dân tệ, kẽm SZNcv1 tăng 1% lên 25.230 Nhân dân tệ, chì SPBcv1 tăng 0,6% lên 16.740 Nhân dân tệ và thiếc SSNcv1 tăng nhẹ 0,1% lên 256.780 Nhân dân tệ.