Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giá kim loại đồng ngày 24/10: tăng giá

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Giá đồng tại Luân Đôn tăng nhẹ, khi hy vọng về các biện pháp kích thích tiếp theo và nhu cầu phục hồi tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu là Trung Quốc đã chống lại áp lực từ đồng USD mạnh hơn.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,3%.
Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,3%.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,3% lên 9.588 USD/tấn sau khi đạt mức cao nhất trong một tuần trong phiên trước.

Hợp đồng đồng tháng 12 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) SCFcv1 giảm 0,7% xuống 76.890 Nhân dân tệ (10.795,06 USD)/tấn.

Đồng USD bám sát mức cao nhất trong hai tháng rưỡi, khiến kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Trung Quốc đã hạ lãi suất cho vay chuẩn tại mức cố định hàng tháng vào thứ Hai, sau khi giảm các mức lãi suất chính sách khác vào tháng trước như một phần của gói biện pháp kích thích nhằm phục hồi nền kinh tế.

Dữ liệu gần đây từ Trung Quốc cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại, nhấn mạnh sự cần thiết của các biện pháp kích thích bổ sung.

Kim loại cơ bản được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như xây dựng và điện tử, với Trung Quốc là nước tiêu thụ hàng đầu. Bất kỳ biện pháp nào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước, đặc biệt là trong bối cảnh yếu kém đang diễn ra trong lĩnh vực bất động sản, đều có khả năng làm tăng nhu cầu về kim loại vật chất.

Lượng đồng tồn kho tại các kho SHFE đã tăng vào tuần trước lên 168.425 tấn, mức cao nhất kể từ ngày 13/9. Trong khi đó, sản lượng đồng tinh chế của Trung Quốc trong tháng 9 vẫn ở mức 1,14 triệu tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.

Thị trường đồng tinh chế toàn cầu cho thấy thặng dư 54.000 tấn vào tháng 8, so với thặng dư 73.000 tấn vào tháng 7.

Nhôm CMAl3 LME ổn định ở mức 2.596,5 USD/tấn, niken CMNI3 giảm 0,8% xuống 16.560 USD, kẽm CMZN3 tăng 0,1% lên 3.078,5 USD, chì CMPB3 tăng 0,2% lên 2.061 USD và thiếc CMSN3 giảm 0,4% xuống 30.900 USD.

Nhôm SAFcv1 SHFE giảm 0,2% xuống 20.750 Nhân dân tệ/tấn, niken SNIcv1 giảm 1,9% xuống 126.530 Nhân dân tệ, kẽm SZNcv1 giảm 1,6% xuống 24.870 Nhân dân tệ, chì SPBcv1 tăng 0,2% lên 16.775 Nhân dân tệ trong khi thiếc SSNcv1 giảm 1,1% xuống 252.960 Nhân dân tệ.