Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giá kim loại đồng ngày 25/4: tăng do USD yếu hơn

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Giá đồng tăng giá USD yếu hơn và triển vọng nhu cầu mạnh mẽ, trong khi các vấn đề về nguồn cung từ mỏ cũng tiếp tục hỗ trợ.

Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 0,9%.
Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 0,9%.

Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn CMCU3 tăng 0,9% ở mức 9.797,50 USD/tấn, tiếp tục xu hướng tăng sau hai ngày giảm giá.

Hợp đồng đồng tháng 6 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải SCFcv1 tăng 0,7% lên 79.380 Nhân dân tệ (10.955,46 USD)/tấn.

Đồng USD giảm so với đồng Euro và đồng bảng Anh, do sự kết hợp giữa dữ liệu hoạt động mạnh mẽ đáng ngạc nhiên của châu Âu và tốc độ tăng trưởng kinh doanh của Mỹ đang hạ nhiệt.

Đồng USD yếu hơn khiến việc mua hàng hóa được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn.

Các nhà phân tích của ANZ cho biết, cũng hỗ trợ thị trường là các vấn đề về nguồn cung đang diễn ra và triển vọng nhu cầu mạnh mẽ với bối cảnh kinh tế được cải thiện.

Cobre Panama - Một trong những mỏ đồng lộ thiên lớn nhất thế giới, đã buộc phải đóng cửa vào tháng 12, khiến nguồn cung đồng tinh quặng toàn cầu bị thiếu hụt trong năm nay.

Sự lo lắng về nguồn cung là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy giá đồng, với đồng LME đạt mức cao nhất trong hai năm vào thứ Sáu tuần trước.

Tuy nhiên, nhu cầu tăng ở Trung Quốc đã làm giảm và lượng hàng tồn kho cao hơn đã khiến các nhà đầu tư giảm bớt vị thế mua và chốt lợi nhuận.

Giá đồng Yangshan, đã giảm xuống gần bằng 0 và là mức thấp nhất, theo dữ liệu của ShanghaiMetals Market theo dõi kỷ lục từ năm 2013.

Các nhà phân tích tại Nanhua Futures cho biết giá đồng có thể sẽ điều chỉnh trong thời gian tới, theo dõi sự sụt giảm của kim loại quý, đặc biệt là bạc khi các quỹ chốt lời.

LME niken CMNI3 tăng 1,2% lên 19.230 USD/tấn, thiếc CMSN3 tăng 0,7% lên 32.630 USD, nhôm CMAL3 tăng 0,8% lên 2.600 USD, kẽm CMZN3 tăng 1% lên 2.821 USD và chì CMPB3 tăng cao hơn 0,9% lên 2.204,50 USD.

SHFE thiếc SSNcv1 giảm 3,1% xuống 256.940 Nhân dân tệ/tấn, nhôm SAFcv1 mất 0,6% xuống 20.250 Nhân dân tệ, niken SNIcv1 giảm 0,7% xuống 142.990 Nhân dân tệ, trong khi kẽm SZNcv1 tăng 0,4% lên 22.555 Nhân dân tệ, chì SPBcv1 tăng 1,2% lên 17.030 Nhân dân tệ.