Đồng giao sau ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,1% ở mức 8.877 USD/tấn, sau khi giảm xuống mức thấp nhất kể từ ngày 13/3 ở mức 8.810 USD.
Người đứng đầu phân tích hàng hóa tại Ngân hàng Saxo ở Copenhagen (Đan Mạch) Ole Hansen cho biết: “Đồng đã giảm khá mạnh vào tuần trước và câu hỏi đặt ra là liệu chúng ta có thể củng cố trên mức hỗ trợ quan trọng là 8.770 USD hay không”.
Đồng LME đã giảm giá sau khi đạt mức cao nhất trong 11 tháng ở mức 9.164,50 USD vào ngày 18/3, do một thỏa thuận hiếm hoi của các nhà máy luyện đồng của Trung Quốc nhằm cắt giảm sản lượng.
“Chúng ta cần thấy điều gì đó về phía nhu cầu ở Trung Quốc, một số biện pháp hạn chế hoạt động của các nhà máy luyện kim và lượng hàng tồn kho tăng lên như một diễn biến tạm thời sau năm mới của Trung Quốc.” - Ole Hansen cho hay.
Hàng tồn kho của Cooper tại các kho đăng ký với sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) chỉ giảm nhẹ vào tuần trước sau đợt tăng theo mùa mạnh nhất kể từ năm 2020.
Hợp đồng đồng SHFE tháng 5 SCFcv1 đóng cửa giảm 0,6% ở mức 72.000 Nhân dân tệ (9.973,40 USD)/tấn. Nó đã giảm xuống 71.720 Nhân dân tệ trước đó trong phiên, mức thấp nhất kể từ ngày 15/3.
Sự suy yếu của đồng trong phiên giao dịch ở châu Á được cho là do đồng Nhân dân tệ giảm giá so với đồng USD kỳ vọng rằng chính sách tiền tệ trong nước dễ dàng hơn và đồng tiền Mỹ mạnh lên sẽ khiến đồng tiền Trung Quốc yếu hơn.
Sự sụt giảm của đồng Nhân dân tệ làm giảm sức mua đối với các nhà đầu tư sử dụng đồng tiền đó để mua hàng hóa được định giá bằng đồng bạc xanh.
Dữ liệu LSEG cho thấy mức giảm giá đồng tiền mặt LME đối với hợp đồng ba tháng MCU0-3 đã mở rộng lên mức cao kỷ lục 115,37 USD/tấn, dữ liệu LSEG cho thấy, cho thấy nguồn cung ngắn hạn dồi dào.
Nhôm LME CMAL3 giảm 0,1% xuống 2.323,50 USD/tấn, niken CMNI3 giảm 0,8% ở mức 16.795 USD, kẽm CMZN3 mất 1,1% xuống 2.468 USD, chì CMPB3 giảm 0,4% xuống 2.026,50 USD và thiếc CMSN3 giảm 0,1% xuống 27.550 USD.