Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Giá thép hôm nay 25/8: Thép cây kỳ hạn đồng loạt giảm

Thành Luân
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi - Ngày 25/8, thị trường thép nội địa giữ đà đi ngang. Còn trên sàn giao dịch Thượng Hải, với thép thanh giao kỳ hạn giao tháng 5/2024 giảm xuống mức 3.680 Nhân dân tệ/tấn.

Giá thép tại miền Bắc

Theo SteelOnline.vn, thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.530 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.740 đồng/kg.

Thương hiệu thép Việt Ý, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.640 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.690 đồng/kg.

Giá thép kỳ hạn trên sàn giao dịch Thượng Hải ngày 25/8 đồng loạt giảm. Ảnh minh họa
Giá thép kỳ hạn trên sàn giao dịch Thượng Hải ngày 25/8 đồng loạt giảm. Ảnh minh họa

Thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.740/kg, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.890 đồng/kg.

Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 xuống mức 13.300 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.500 đồng/kg.

Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 và thép thanh vằn D10 CB300 tiếp tục đồng giá 13.400 đồng/kg.

Thép VJS, với thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg; còn dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.800 đồng/kg.

Giá thép tại miền Trung

Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.530 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.740 đồng/kg.

Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.040 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 14.140 đồng/kg.

Thép VAS, hiện thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.550 đồng/kg; dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg.

Thép Pomina, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 14.590 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 giảm 100 đồng, có giá 14.380 đồng/kg.

Giá thép tại miền Nam

Thép Hòa Phát, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.790 đồng/kg; thép cuộn CB240 ở mức 13.530 đồng/kg.

Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 và thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.600 đồng/kg.

Thép Pomina, dòng thép cuộn CB240 có giá 14.480 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức 14.380 đồng/kg.

Giá thép trên sàn giao dịch

Giá thép cây giao kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn giao dịch Thượng Hải (SHFE) giảm 19 Nhân dân tệ, xuống mức 3.680 Nhân dân tệ/tấn. Giá quặng sắt kỳ hạn giảm trong ngày do các nhà giao dịch chốt lời sau đợt tăng giá dài nhất của Singapore kể từ tháng 6 và giá quặng sắt tại Đại Liên tăng 10 phiên, cũng như lo ngại về suy thoái kinh tế của Trung Quốc và khó khăn trong lĩnh vực bất động sản.

Hợp đồng tháng 9 của nguyên liệu sản xuất năng động nhất trên sàn giao dịch Singapore SZZFU3 đã giảm 1,4% ở mức 111,65 USD/tấn, sau khi tăng 5 phiên liên tiếp và đạt mức cao nhất 4 tuần trước đó trong ngày.

Quặng sắt được giao dịch nhiều nhất trong tháng 1 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên DCIOcv1 của Trung Quốc đã kết thúc giao dịch trong ngày thấp hơn 0,9% ở mức 811 Nhân dân tệ/tấn (111,39 USD/tấn), sau khi giao dịch trước đó gần mức cao nhất hai năm vào 23/8 là 832,50 Nhân dân tệ/tấn.

Quặng sắt Đại Liên và SGX đã tăng lần lượt khoảng 7% và 5% trong tuần này, trong khi giá giao ngay cũng đạt mức cao nhất trong 4 tuần, do chính sách hỗ trợ của Trung Quốc cho sự phục hồi kinh tế đang chững lại của nước này đã củng cố tâm lý chấp nhận rủi ro.

Dự trữ quặng sắt tại cảng giảm dần tại quốc gia sản xuất thép hàng đầu Trung Quốc và sản lượng thép tăng mạnh trước hoạt động xây dựng trong nước theo mùa từ tháng 9 - 10 đã góp phần thúc đẩy đà tăng.

Các nhà phân tích của Citi cho biết: “Ngay cả khi Trung Quốc tăng cường hỗ trợ chính sách gia tăng một cách có ý nghĩa ngay bây giờ, vẫn sẽ có một khoảng thời gian trễ để tác động của chúng thể hiện rõ”.

Tuy nhiên, bất kỳ sự sụt giảm nào về giá quặng sắt có thể bị hạn chế do không có chỉ thị rõ ràng và mới từ chính quyền Trung Quốc nhằm hạn chế sản lượng thép trong năm nay theo chính sách nhằm hạn chế lượng khí thải carbon.

Các nhà phân tích của Zhongzhou Futures cho biết: “Thị trường dự kiến sẽ tiếp tục chơi trò chơi trước khi thực hiện chính sách hạn chế sản xuất”.

Hầu hết các tiêu chuẩn thép ở Thượng Hải và các thành phần sản xuất thép khác ở Đại Liên cũng giảm trở lại. Than cốc DJMcv1 giảm 1,4% và than cốc DCJcv1 mất 1,7%. Thép cây SRBcv1 giảm 1,2% và thép cuộn cán nóng SHHCcv1 giảm 1,6%, trong khi thép thanh SWRcv1 tăng 2,9%. Thép không gỉ SHSScv1 giảm 1,5%.