Sáng 9/6, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam Nguyễn Thị Hồng tiếp tục trả lời chất vấn các câu hỏi của đại biểu quốc hội về lĩnh vực ngân hàng.
Nguy cơ rủi ro của trái phiếu DN riêng lẻ đối với hệ thống ngân hàng
Đại biểu Phan Đức Hiếu nêu câu hỏi, số liệu thống kê cho thấy, trong năm 2021, các tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu riêng lẻ chiếm nhiều nhất (36,16% tổng khối lượng phát hành).
Đến quý 1/2022, trái phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng chỉ chiếm 4,9%, nhưng trong tháng 4/2022, khối lượng trái phiếu phát hành đã tăng lên, chiếm tỷ trọng 63,4%.
Trên thị trường sơ cấp và thứ cấp, tổ chức tín dụng cũng là tổ chức nắm giữ một lượng trái phiếu DN rất lớn. Các tổ chức tín dụng đang nắm giữ một lượng trái phiếu DN riêng lẻ còn dư nợ rất lớn là 45,76%? Đại biểu đặt câu hỏi: Thống đốc đánh giá như thế nào về nguy cơ rủi ro của trái phiếu DN riêng lẻ đối với hệ thống ngân hàng hiện đã và đang sẽ có giải pháp gì?
Trả lời chất vấn của đại biểu Phan Đức Hiếu về vai trò các tổ chức tín dụng là người phát hành trái phiếu, Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, việc này như một hình thức huy động tiền của người dân. Người dân có thể gửi tiền dưới dạng chứng chỉ tiền gửi hoặc có thể mua trái phiếu của tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu này và có kỳ hạn trên 1 năm.
Do vậy, thuận lợi cho người dân có thể nắm giữ trái phiếu này, khi đến hạn thì nhận được tiền như đi rút tiền gửi. Đối với các tổ chức tín dụng mà phát hành trái phiếu chuyển đổi, người dân có thể thay vì nắm giữ tiền cũng có thể trở thành cổ đông nhỏ lẻ của tổ chức tín dụng.
Trong quá trình quản lý, NHNN đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định với điều kiện, tiêu chuẩn. Các tổ chức tín dụng phải đồng thời thực hiện các quy định về pháp luật về chứng khoán, tức là trái phiếu doanh nghiệp theo Nghị định 153. Với vai trò các tổ chức tín dụng là người đi mua, đầu tư trái phiếu do doanh nghiệp phát hành, đối với những khoản đầu tư mua trái phiếu này, NHNN đã ban hành những quy định chặt chẽ, các tổ chức tín dụng nợ xấu trên 3 % sẽ không được mua trái phiếu doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp phát hành trái phiếu phải có đủ khả năng trả nợ, thanh toán trái phiếu mà các tổ chức dụng thẩm định và không có nợ xấu trong vòng 12 tháng.
Tránh trục lợi chính sách từ chương trình cho vay bù lãi suất
Đại biểu Hoàng Văn Cường (đoàn Hà Nội) cho biết: Hiện nay, NHNN đang triển khai chương trình cho vay bù lãi suất 2% trong gói phục hồi kinh tế với tổng ngân sách 40.000 tỷ đồng, điều đó nghĩa là 2 triệu tỷ tiền vốn vay sẽ được chính sách cấp bù.
Đại biểu đặt câu hỏi Thống đốc có giải pháp như thế nào để kiểm soát chương trình này để tránh tình trạng dòng vốn sẽ đi vào khu vực không cần thiết, đặc biệt là tránh trục lợi chính sách như đã xảy ra từ năm 2009?
Sau đại dịch Covid-19, nhiều DN đang còn có khoản vay phải hoãn, giãn chưa phải trả nợ và không có tài sản đảm bảo thêm để thế chấp, vậy các DN có phương án kinh doanh tốt, thuộc nhóm cần được phục hồi, vậy xin hỏi Thống đốc, làm thế nào để các DN này được tiếp cận gói hỗ trợ này?
Trả lời chất vấn, Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết, đây là gói hỗ trợ doanh nghiệp và người dân rất quan tâm. Trong quá trình xây dựng Nghị định 31, NHNN Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, Chính phủ cũng tổ chức các cuộc họp cho ý kiến để làm sao thiết kế ra các quy định đảm bảo được việc triển khai thuận lợi, nhất là hạn chế những cái khó khăn, vướng mắc.
Để đảm bảo được các đối tượng rõ ràng, tại Nghị quyết 11 của Chính phủ cũng đã nêu rất rõ đối với hai nhóm đối tượng. Đó là nhu cầu vay vốn thuộc một số ngành kinh tế đã được quy định tại Quyết định số 27 của Thủ tướng Chính phủ về phân ngành kinh tế. Từ trước đến nay, các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp và người dân đều có sự phân ngành kinh tế theo chuẩn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Thứ hai là nhu cầu cho vay đối với việc cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân và cải tạo chung cư cũ. Vấn đề này do Bộ Xây dựng phối hợp với các địa phương rà soát và công bố danh mục đển có cơ sở rõ ràng. Để thiết kế một cách công bằng, công khai thì có sự tham gia của các Bộ, ngành liên quan trong khâu dự toán, thực hiện dự toán cũng như quyết toán. Đặc biệt, trong Nghị định này cũng có quy định sự tham gia gia của Kiểm toán Nhà nước đối với các khoản cho vay trước khi Bộ Tài chính thực hiện quyết toán khoản vay này.
Đối với biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp có khoản nợ cũ không có tài sản đảm bảo tiếp cận được gói hỗ trợ, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nêu rõ, từ khi bàn thảo, trình Quốc hội và Quốc hội đã cho ý kiến, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng họp một số phiên để xem xét về vấn đề này, trong đó thấy rằng gói này hỗ trợ chương trình phục hồi và phát triển kinh tế, đối tượng ở đây là phải là các doanh nghiệp có khả năng trả nợ, có khả năng phục hồi.
Như vậy, trong Nghị định và Thông tư hướng dẫn của NHNN đã yêu cầu các tổ chức tín dụng cho vay đúng đối tượng, các đối tượng, các doanh nghiệp thuộc các ngành được hỗ trợ nhưng vẫn phải đảm bảo khả năng trả nợ và có khả năng phục hồi mới được cho vay. Nếu trong quá trình thẩm định, đánh giá, các tổ chức tín dụng đánh giá là doanh nghiệp không đủ điều kiện vay, thực sự các doanh nghiệp cũng không tiếp cận được chương trình này. Trên thực tế, trong thời gian vừa qua đã có nhiều giải pháp để hỗ trợ cho các doanh nghiệp bị tác động bởi đại dịch Covid-19 chứ không nằm trong chương trình này...
Thống đốc đánh giá như thế nào năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng?
Tại phiên chất vấn, Đại biểu Cao thị Xuân (đoàn Thanh Hóa) đặt câu hỏi: Thống đốc đánh giá như thế nào năng lực tài chính hiện nay của các tổ chức tín dụng? Hiện nay đang gặp phải khó khăn, vướng mắc gì và giải pháp của NHNN trong thời gian tới đối với vấn đề này như thế nào?
Các dự án giao thông hiện nay chủ yếu đề xuất chuyển sang hình thức đầu tư công, có phải việc huy động nguồn vốn tín dụng ngân hàng khó khăn, NHNN có biện pháp gì tháo gỡ, thu hút nguồn vốn tín dụng cho đầu tư các dự án hạ tầng giao thông trong thời gian tới?
Trả lời câu hỏi về năng lực tài chính của hệ thống các tổ chức tín dụng, Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng cho biết, để đánh giá về năng lực, tiềm lực tài chính của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam so với các nước vẫn còn đang rất hạn chế. Đối với định hướng trong thời gian tới, NHNN sẽ tham mưu, đề xuất với các cấp có thẩm quyền, yêu cầu các tổ chức tín dụng trong hệ thống tăng vốn để củng cố tiềm lực về vốn trong hoạt động.
Về vấn đề việc gần đây có các dự án chuyển từ đầu tư PPP sang đầu tư công, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, để triển khai các dự án cơ sở hạ tầng giao thông là một vấn đề rất quan trọng, cần rất nhiều nguồn vốn từ các nguồn, trong đó có đầu tư công và thu hút vốn nước ngoài, vốn của khu vực tư nhân, vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Do vốn phục vụ nhu cầu xây dựng giao thông thường là giá trị rất lớn, thời hạn vay rất dài, tài sản đảm bảo của các khoản vay này chủ yếu là quyền thu phí.
"Trong thực tiễn, thời gian vừa qua, các ngân hàng cho vay đối với dự án BOT gặp phải một số khó khăn. Nợ xấu trong các dự án này cao bởi nhiều dự án có phương án tài chính không được như phương án xây dựng ban đầu. Trong thời gian vừa qua, khi xây dựng những chính sách này thì hy vọng trong thời gian tới các chính sách của NHNN đối với BOT này sẽ có những cơ sở để các tổ chức tín dụng thẩm định và cho vay." - Thống đốc Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.
Cần phải có thời gian thực hiện chuyển đối số hoạt động cho vay
Đại biểu Nguyễn Đại Thắng (đoàn Hưng Yên) chia sẻ: Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng chuyển đổi số vào hoạt động cho vay, tại sao Việt Nam đến nay vẫn chưa triển khai được nhiều? Nếu tích hợp chuyển đổi số thì người dân không cần phải đến ngân hàng, chỉ cần sử dụng điện thoại liên hệ với ngân hàng là được vay tiền ngay, ngành NH có giải pháp gì để tăng cường chuyển đổi số vào hoạt động cho vay để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế?
Về ứng dụng chuyển đổi số và hoạt động cho vay, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, chuyển đổi số là một xu hướng ở các nước trên thế giới hiện nay, nhiều nước trên thế giới cũng đang tổ chức triển khai. Đối với Việt Nam, trong Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII xác định rất rõ phải hướng đến chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số. Chính phủ cũng đã có các chương trình, NHNN cũng đã ban hành các chương trình hành động, trong đó đặt ra những mục tiêu cụ thể như đến năm 2025 phải phấn đấu tối thiểu 50%, đến năm 2030 phấn đấu tối thiểu là 70% các khoản vay, các khoản cho vay của ngân hàng và các công ty tài chính đối với những cái khoản vay nhỏ lẻ phục vụ tiêu dùng phải được thực hiện qua kênh số.
Trên thực tế, ngành ngân hàng là một trong những ngành rất tích cực trong vấn đề ứng dụng công nghệ và đã có những bước nền tảng để chuyển sang chuyển đổi số. NHNN đã có văn bản hướng dẫn xác thực khách hàng, khách hàng mở tài khoản trên phương tiện thông tin ở phương tiện điện tử mà không cần đến ngân hàng… Đấy là nền tảng ban đầu, đối với các hoạt động khác như thanh toán tiền, về cơ bản, bây giờ là các ngân hàng thực hiện trên kênh số, người dân có thể ở nhà và tiếp cận dịch vụ ngân hàng.
Nhưng riêng đối với hoạt động cho vay, hai câu hỏi rất quan trọng trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng đó là phải xác định là khách hàng đó là ai và khách hàng đấy có khả năng trả nợ hay không.
"Đối với Việt Nam, để xác thực khách hàng đấy có khả năng trả nợ hay không để cho vay trên phương tiện điện tử mà không cần khách hàng phải đến ngân hàng thì đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải tập hợp được rất nhiều dữ liệu, thông tin cơ sở về khách hàng để xác định, thẩm định được khách hàng đấy có đủ khả năng trả nợ hay không không. Điều này cần phải có thời gian thực hiện." - Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết.