Sụt thu ngân sách
Từ đầu năm 2021 đến nay, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19, nhu cầu/huy động khí cho phát điện ở mức thấp so với kế hoạch và cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực Đông Nam Bộ đạt 87,5%; Tây Nam Bộ đạt 72,7% kế hoạch huy động khí cho sản xuất điện.
Tình hình trầm trọng hơn trong đợt bùng phát dịch ở nước ta từ cuối tháng 4/2021, với chính sách giãn cách xã hội trên diện rộng, kéo dài, đặc biệt tại các tỉnh thành phía Nam. Đến tháng 7, tháng 8 mức độ tác động của dịch bệnh đến tiêu thụ khí cho thấy càng mạnh mẽ hơn. Dự báo trong những tháng cuối năm 2021, dịch bệnh Covid-19 còn diễn biến phức tạp, việc trở lại hoạt động bình thường khó khả thi.
Một số tổ chức dựa trên các kịch bản kiểm soát dịch Covid-19 để đưa ra các mức tăng trưởng kinh tế Việt Nam những tháng cuối năm đều ở mức thấp so với 6 tháng đầu năm, điều này sẽ dẫn đến nhu cầu khí tiếp tục ở mức thấp, đặc biệt từ tháng 9, 10 năm 2021 khi sức chịu đựng của nhiều doanh nghiệp tới hạn sau 1 thời gian dài chống đỡ với dịch Covid-19.
Hiện nay, các nhà máy điện là khách hàng tiêu thụ chính, chiếm tới 80% tổng sản lượng khí. Việc giảm huy động khí cho phát điện sẽ làm giảm công suất các nhà máy, lãng phí khối tài sản đã đầu tư xây dựng các cụm công trình khí – điện; kéo theo việc giảm khai thác ở các mỏ dầu khí ngoài khơi.
Điều này sẽ gây thiệt hại do giảm nguồn thu của Nhà nước từ hoạt động khai thác dầu khí (nguồn thu chủ lực của ngân sách hiện nay) bao gồm: Thuế tài nguyên, phần chia lãi nước chủ nhà, phần chia lãi nhà thầu trong nước, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, thuế xuất khẩu sản phẩm dầu khí, thuế giá trị gia tăng… Nguồn thu của Nhà nước cũng sẽ bị sụt giảm tương tự đối với hoạt động vận chuyển khí từ ngoài biển về bờ. Ngoài ra, việc giảm huy động khí cho phát điện sẽ làm phát sinh nghĩa vụ trả trước của bên mua khí với các chủ mỏ và số tiền không nhỏ, làm ảnh hưởng đến cân đối dòng tiền của bên mua khí.
Tình hình huy động khí cho điện thấp sẽ dẫn đến mức thu ngân sách của các địa phương sẽ giảm đáng kể so với năm 2020, theo đó chỉ tính riêng tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu dự kiến giảm 435 tỷ đồng, tình trạng tương tự cũng diễn ra ở nhiều tỉnh, thành khác.
Năm 2022, dự báo việc huy động khí cho điện tiếp tục sụt giảm hơn nhiều so với năm 2021, dự kiến khả năng huy động khí cho phát điện khu vực Đông Nam Bộ không cao hơn 2,8 tỷ m3 và khu vực Tây Nam Bộ có thể xuống thấp đến 755 triệu m3. Với mức dự báo huy động khí cho năm 2022 như trên thì thu ngân sách của các địa phương sẽ sụt giảm lớn (cũng ví dụ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu dự kiến giảm 1.121 tỷ đồng).
Bài toán về giá điện
Tình hình huy động khí cho phát điện thấp cũng phản ánh nhu cầu phụ tải thấp trên thị trường điện. Ngành điện đối diện với bài toán thừa điện do hoạt động sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng, nhiều nhà máy giảm công suất, ngừng hoạt động bởi tác động của dịch Covid-19. Thêm vào đó, nguồn cung của hệ thống điện quốc gia tăng đáng kể do các dự án điện năng lượng tái tạo được đưa vào vận hành và đây là nguồn thường được Hệ thống điều độ quốc gia (A0) ưu tiên huy động.
Trong khi đó, các nhà máy điện mặt trời, điện gió theo chính sách ưu tiên năng lượng tái tạo được liên tục huy động tối đa với giá bán điện trong 20 năm cao hơn rất nhiều so với giá nhiệt điện khí. Hiện tại, hệ thống điện đang huy động 4.460 MW điện mặt trời vận hành trước 30/6/2019 có giá bán là 2.086 đồng/kWh, 7.910 MW điện mặt trời mái nhà từ 1/7/2019 có giá bán 1.943 đồng/kWh, 12.040 MW điện mặt trời mặt đất có giá bán 1.644 đồng/kWh. Ngoài ra, cùng với tổng công suất điện gió đến cuối năm 2021 dự kiến đạt 6.250MW và được bán với giá điện gió đất liền là 1.928 đồng/kWh.
Tất cả các dạng năng lượng tái tạo hiện nay đều có giá cao hơn giá nhiệt điện khí – trong khi nhiệt điện khí cũng là năng lượng sạch. Giá bình quân của cụm các nhà máy điện Nhơn Trạch là 1.441 đồng/kWh, các nhà máy điện Cà Mau là 1.319 đồng/kWh, các nhà máy điện Phú Mỹ là 1.175 đồng/kWh.
Trong khi đó, năng lượng tái tạo được huy động tối đa theo công suất khả dụng cùng với việc cắt giảm huy động nhiệt điện khí đã đẩy giá thành điện lên cao trong khi giá điện thương phẩm bình quân không thay đổi áp dụng từ 20/3/2019 là 1.864 đồng/kWh.
Tác động đến chiến lược và an ninh năng lượng quốc gia
Huy động khí cho phát điện giảm sẽ tác động tiêu cực đến môi trường vì khí thiên nhiên được xem là dạng năng lượng sạch sử dụng hiệu quả cho điện, ít phát thải khí nhà kính. Việc này cũng tác động ảnh hưởng đến công tác đầu tư đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí trong nước nói chung và đặc biệt tại vùng nước sâu, xa bờ nói riêng trong chiến lược bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc; không tận dụng được nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có của quốc gia, cũng như không thu hút đầu tư phát triển các dự án nhập khẩu LNG để đảm bảo nguồn năng lượng sơ cấp lâu dài cho hệ thống điện quốc gia.
Điều này không phù hợp với Nghị Quyết số 55/NQ-TW của Bộ Chính trị mới ban hành ngày 11/02/2020 về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trong đó đã đưa ra nhiệm vụ phát triển công nghiệp khí “ưu tiên đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ nhập khẩu và tiêu thụ LNG” đồng thời “chú trọng phát triển nhanh nhiệt điện khí sử dụng LNG, đưa điện khí dần trở thành nguồn cung cấp điện năng quan trọng, hỗ trợ cho điều tiết hệ thống”, “… khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn năng lượng hoá thạch trong nước, chú trọng mục tiêu bình ổn, điều tiết và yêu cầu dự trữ năng lượng quốc gia; ưu tiên phát triển điện khí, có lộ trình giảm tỉ trọng điện than một cách hợp lý; chủ động nhập khẩu nhiên liệu từ nước ngoài cho các nhà máy điện; Phân bổ tối ưu hệ thống năng lượng quốc gia trong tất cả các lĩnh vực trên cơ sở lợi thế so sánh của từng vùng, địa phương”.
Việc giảm huy động khí cho phát điện cũng tác động đến các dự án nhập khẩu LNG mà Quyết định số 2233/QĐ-TTg ngày 28/12/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc Phê duyệt Đề án Phát triển thị trường năng lượng cạnh tranh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đã yêu cầu tổ chức triển khai nhằm đảm bảo cơ sở hạ tầng cho việc nhập khẩu LNG, vận hành chuỗi cung ứng LNG đáp ứng yêu cầu về an ninh năng lượng. Trong ngắn hạn, việc này có thể tác động làm chậm trễ quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG; và khi kinh tế hồi phục, nhu cầu năng lượng gia tăng sẽ tất yếu dẫn đến thiếu hụt nguồn cung năng lượng, khả năng nhập khẩu LNG sẽ bị hạn chế do việc phát triển cơ sở hạ tầng nhập khẩu LNG đòi hỏi thời gian dài hạn từ 4 - 5 năm.
Dự án nhập khẩu LNG đảm bảo khả thi cần phải có sản lượng khí huy động liên tục và ổn định trong thời gian dài (20-30 năm). Vì vậy, huy động khí cho phát điện và đặc biệt là kế hoạch huy động khí cho phát điện từ nguồn LNG nhập khẩu cần phải có kế hoạch dài hạn ổn định để có thể triển khai, đáp ứng cơ cấu an toàn về nguồn điện trong hệ thống điện quốc gia; đồng thời tận dụng nguồn lực hạ tầng sẵn có từ cảng biển, hệ thống đường ống, trạm phân phối để có thể kết nối tổng thể duy trì sự đồng bộ và hiệu quả đối với quy hoạch phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật cung cấp khí cho phát điện trên toàn quốc, đáp ứng nhu cầu năng lượng của đất nước trong cả ngắn và dài hạn; đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ đầu tư chuỗi dự án khí - điện.
Qua đây, có thể thấy, để đảm bảo hiệu quả tổng thể của toàn bộ chuỗi giá trị khí đã được đầu tư và tạo nền tảng cho việc tiếp tục phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam bền vững, tiếp tục khẳng định vị thế các sản phẩm khí là nguồn năng lượng xanh, sạch, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, lương thực của quốc gia theo đúng chủ trương của Đảng và Nhà nước thì nên có sự công bằng trong việc huy động các nguồn điện và phát triển chuỗi giá trị khí - điện một cách hiệu quả để góp phần bảo đảm an ninh năng lượng và phát triển kinh tế đất nước.
Vừa qua, UBND tỉnh Cà Mau đã có Công văn hỏa tốc số 5476/UBND-KT ngày 17/9/2021 gửi Bộ Công Thương kiến nghị về việc chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) tăng cường huy động Nhà máy điện Cà Mau 1 và 2, góp phần phục hồi kinh tế - đời sống xã hội do ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19, thúc đẩy tăng trưởng tỉnh Cà Mau và doanh nghiệp trong thời gian tới. |