Việt Nam vươn mình trong kỷ nguyên mới

Hà Nội: Tái cơ cấu ngành chăn nuôi theo hướng chuyên nghiệp

Nguyễn Ngọc Sơn - Chi cục trưởng Chi cục Chăn nuôi và Thú y Hà Nội
Chia sẻ Zalo

Kinhtedothi – Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, đòi hỏi ngành chăn nuôi Hà Nội phải tái cấu trúc lại theo hướng chuyên nghiệp, trong đó lấy công nghệ làm động lực nâng cao năng suất, chất lượng, đáp ứng nhu cầu khi bước vào sân chơi quốc tế.

Qua thời chạy theo số lượng

Năm 2021, ngành chăn nuôi của Hà Nội phải đối diện nhiều thách thức do dịch bệnh truyền nhiễm trên động vật, thời tiết diễn biến phức tạp, đặc biệt là tác động của dịch Covid-19. Trong thời gian giãn cách xã hội phải lùi lịch triển khai hàng loạt các hoạt động chuyên môn, như tiêm phòng, kiểm dịch, kiểm soát giết mổ, một số cơ sở giết mổ tập trung phải tạm dừng hoạt động. Hơn nữa đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia đã ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất thức ăn chăn nuôi, dẫn đến giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng cao trên 30%.

Chăn nuôi lợn theo chuỗi khép kín tại Hợp tác xã Hoàng Long, Thanh Oai
Chăn nuôi lợn theo chuỗi khép kín tại Hợp tác xã Hoàng Long, Thanh Oai

Khó khăn là vậy, song ngành chăn nuôi của Hà Nội vẫn có những chuyển biến đáng ghi nhận cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, trên  địa bàn TP có 7.528 trại chăn nuôi quy mô lớn, vừa, nhỏ; quy mô đàn tiếp tục tăng, với đàn trâu 27.500 con (tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2020), đàn bò 130.500con (tăng 0,1%), đàn lợn 1,37 triệu con (tăng 9% so với cùng kỳ), đàn gia cầm là 39,9 triệu con...

Định hướng trong thời gian tới, ngành chăn nuôi của Hà Nội vẫn tập trung phát triển theo hướng công nghiệp với quy mô lớn, đạt chuẩn an toàn. Trong đó, phát triển chăn nuôi bò và lợn để tăng giá trị gia tăng trong nông nghiệp; giữ ổn định trong chăn nuôi trâu và gia cầm. Cụ thể, phát triển đàn trâu 27-28.000 con, đàn bò khoảng 135.000 con; phát triển đàn lợn khoảng 1,6-1,8 triệu con; giữ ổn định đàn gia cầm 40 triệu con.

Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn nhìn nhận lại, ngành chăn nuôi của Hà Nội hiện còn tồn tại nhiều hạn chế. TP đã có quy hoạch các vùng chăn nuôi tập trung, song tỷ lệ chăn nuôi nhỏ lẻ vẫn cao (chiếm 60%). Còn có nhiều trang trại chăn nuôi phát triển theo hướng tự phát. Người chăn nuôi bước đầu mới chỉ chú trọng tăng năng suất. Trong sản xuất, các chuỗi khép kín, chuỗi liên kết còn chưa nhiều, lượng sản xuất và quy mô còn nhỏ chưa đáp ứng tiềm năng lợi thế của một Thủ đô.

Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, đã đến lúc ngành chăn nuôi của Hà Nội phải tính đến bài toán cạnh tranh dài hạn khi bước vào sân chơi quốc tế. Buộc người chăn nuôi phải thay đổi về “chất” thay vì chỉ chạy theo số lượng như trước. Từng bước chuyên nghiệp hóa chăn nuôi theo tiêu chuẩn công nghiệp hiện đại, không chỉ đáp ứng tốt thị trường nội địa mà còn hướng đến xuất khẩu. Hoàn thiện chuỗi sản phẩm chăn nuôi từ sản xuất đến bàn ăn theo hệ thống khép kín từ sản xuất, giết mổ, chế biến đến khâu tiêu thụ... Trong đó, việc xây dựng thương hiệu cho chuỗi sản phẩm chăn nuôi cũng cần được đầu tư đúng, nhất là đối với các sản phẩm được chứng nhận VietGAP để có đầu ra thật sự bền vững bằng uy tín, chất lượng.

Mô hình nuôi gà đẻ trứng tại Cấn Hữu, Quốc Oai
Mô hình nuôi gà đẻ trứng tại Cấn Hữu, Quốc Oai

6 giải pháp trọng tâm

Để phát triển xứng tầm, ngành chăn nuôi Hà Nội đang tái cấu trúc lại theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại. Giải pháp đầu tiên là tái cơ cấu lại chăn nuôi theo vùng xã trọng điểm với các đối tượng nuôi chủ lực. Trong đó, phát triển 76 xã chăn nuôi sản phẩm chủ lực, gồm 15 xã chăn nuôi bò sữa; 19 xã chăn nuôi bò thịt; 13 xã chăn nuôi lợn; 29 xã chăn nuôi gia cầm. Tiếp tục rà soát, tập trung thực hiện việc hạn chế, không chăn nuôi tại các quận và các huyện (Hoài Đức, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì) đã có lộ trình lên quận theo Nghị quyết 02 ngày 7/7/2020 của HĐND TP.

Hai là cơ cấu lại giống và nâng cao năng suất, chất lượng giống vật nuôi. Những năm gần đây, Hà Nội tập trung sản xuất con giống bằng việc đưa những giống mới chất lượng cao vào sản xuất bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo. Cụ thể về sản xuất giống bò, đối với giống bò sữa, tỷ lệ đàn bò sữa Holstein Friesian theo hướng tiệm cận với chất lượng giống thuần chủng (đàn bò sữa có tỷ lệ máu lai 7/8 trở lên chiếm trên 90%). Năng suất sữa đạt 5.000 kg/con/chu kỳ (tăng 100 kg/con/chu kỳ). Với giống bò thịt, tỷ lệ bò lai Zebu chiếm trên 60% (lai Senepol, lai Sind, lai Brahman). Các giống bò thịt chất lượng cao (BBB, Wagyu, Angus...) chiếm khoảng trên 30%.

Về sản xuất giống lợn, TP Hà Nội hiện có 3.600 con lợn nái ngoại ông bà được nuôi tại 20 cơ sở. Đàn lợn nái bố mẹ ngoại thuần chủng 44 nghìn con được nuôi chủ yếu tại 1.086 trại chăn nuôi quy mô lớn ngoài khu dân cư. Giống lợn hiện được nuôi phổ biến là con lai Yorkshire, Landrace với lợn nội địa hoặc lai 3 máu. Tỷ lệ thụ tinh nhân tạo trên địa bàn toàn TP đạt 80%, hàng năm sản xuất ra 4 triệu con lợn giống (trong đó có gần 40 nghìn con lợn bố mẹ).

Sản xuất giống gia cầm, hình thành 9 vùng phát triển chăn nuôi gà tập trung quy mô lớn. Đối với các vật nuôi khác, phát triển chăn nuôi dê sữa, dê thịt tại các vùng đồi núi tại các huyện Ba Vì, Chương Mỹ, Mỹ Đức, Sóc Sơn...Tổng đàn dê hiện nay khoảng 14.297 con. Chăn nuôi thỏ khoảng trên 11 nghìn con để cung cấp huyết thanh phục vụ y học và sản phẩm thịt cho những người có sở thích, nhu cầu.

Ba là cơ cấu lại phương thức sản xuất chăn nuôi theo chuỗi giá trị. Duy trì và phát triển 52 chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi, hàng ngày cung cấp cho thị trường khoảng 60 tấn thịt các loại; 300.000 quả trứng và 78 tấn sữa. Tập trung thu hút các DN sản xuất gắn kết với các trang trại chăn nuôi để cùng đầu tư xây dựng thương hiệu sản phẩm, ký kết hợp tác với các tỉnh, TP đảm bảo mục tiêu về tiêu thụ sản phẩm có nguồn gốc rõ ràng.

Bốn là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi. Trong sản xuất con giống, nâng cao năng suất sinh sản đàn vật nuôi bằng cách sử dụng công nghệ tiên tiến thụ tinh nhân tạo, tiến tới phương thức cấy truyền phôi, nhân giống có năng suất chất lượng, để cải thiện đàn sinh sản. Trong chăn nuôi, sử dụng các chế phẩm sinh học, cây thảo dược để phục vụ chăn nuôi theo hướng sinh học, hữu cơ. Ứng dụng kỹ thuật chế biến, bảo quản các loại phụ phẩm nông nghiệp, công nghiệp làm thức ăn cho bò. Sử dụng các trang thiết bị hiện đại, nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi như hệ thống chuồng kín, hệ thống máng ăn, máng uống tự động, hệ thống xử lý môi trường. Sử dụng công nghệ làm hầm Biogas bằng nhựa Composite, nhựa HDPE và máy ép phân vừa xử lý chất thải, vừa tạo ra khí đốt phục vụ sinh hoạt và là nguồn nguyên liệu để nuôi giun quế. Đưa chế phẩm vi sinh EM vào lĩnh vực xử lý môi trường và đệm lót sinh học trong chăn nuôi góp phần giảm 80-90% mùi hôi thối của chuồng nuôi, tăng khả năng kháng bệnh cho vật nuôi.

Năm là cơ cấu lại hệ thống giết mổ, sơ chế sản phẩm gia súc, gia cầm, để có thể quản lý tốt nhất cơ sở giết mổ tập trung và hạn chế giết mổ nhỏ lẻ trong khu dân cư, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường và đảm bảo an toàn thực phẩm. Thu hút các DN đầu tư xây dựng các cơ sở giết mổ tập trung gắn với sơ chế, chế biến sâu tại 29 điểm đã được TP phê duyệt (tại Quyết định 761 ngày 17/2/2020). Đảm bảo gia súc gia cầm có kiểm soát trước khi ra thị trường đảm bảo an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.

Sáu là cơ cấu lại công tác quản lý chăn nuôi thú y: Tiếp tục kiện toàn tổ chức cơ quan quản lý chuyên ngành chăn nuôi thú y, duy trì hệ thống quản lý chăn nuôi thú y từ cấp TP đến xã, phường, thị trấn. Thực hiện tốt các giải pháp về giám sát, tiêm phòng, vệ sinh môi trường để đảm bảo an toàn dịch bệnh động vật. Kịp thời phát hiện khống chế, ngăn chặn các bệnh truyền nhiễm nhất là các bệnh mới, chủng mới xuất hiện thời gian qua. Tập trung xây dựng vùng, cơ sở an toàn dịch bệnh để đảm bảo cho việc xuất nhập gia súc gia cầm trên địa bàn được thuận lợi.

Song song với đó, làm tốt hơn công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm trong lĩnh vực phát triển chăn nuôi, xây dựng trang trại, khai báo chăn nuôi và phòng chống dịch bệnh. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền để các cấp các ngành, người chăn nuôi người tiêu dùng chủ động thực hiện các giải pháp phát triển chăn nuôi và phòngchống dịch bệnh ngay từ cơ sở, từng bước đưa Luật Chăn nuôi, Luật Thú y, Luật ATTP vào thực tiễn sản xuất.